Home
» Biên khảo - Tư liệu
» Nhân vật Quan Công trong Tam Quốc Diễn Nghĩa Bài 1 – Thái Quốc Mưu (USA)
Nhân vật Quan Công trong Tam Quốc Diễn Nghĩa Bài 1 – Thái Quốc Mưu (USA)
Thứ Sáu, 18 tháng 3, 2016
Quan Công
(關公), một nhân vật thật,
được hư cấu trong bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa. Đa số, người Việt chúng
ta chỉ biết và thần tượng hóa nhân vật nầy qua ngòi bút phù phép của La Quán
Trung. Nên, có nhiều chuyện hoàn toàn bịa đặt mà người đọc Tam Quốc Diễn Nghĩa tin,
và tưởng đó là sự thật.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Thái Quốc Mưu
Còn có bút danh Liêu Tiên Sinh
Tên thật Thái Quốc Mưu
Ngày Tháng Năm sinh: 11/2/1941
Quê quán Thị xã Mỹ Tho (TP.Mỹ Tho - Tỉnh Tiền Giang)
Định cư tại Mỹ ngày 22-2-1992
Tác giả Thái Quốc Mưu
Còn có bút danh Liêu Tiên Sinh
Tên thật Thái Quốc Mưu
Ngày Tháng Năm sinh: 11/2/1941
Quê quán Thị xã Mỹ Tho (TP.Mỹ Tho - Tỉnh Tiền Giang)
Định cư tại Mỹ ngày 22-2-1992
Hiện đang sống và làm việc tại Atlanta USA
Email: danviet1995@aol.com
_____
Quan Công (關公), một nhân vật thật, được hư cấu
trong bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa.
Đa số, người Việt chúng ta chỉ biết và thần
tượng hóa nhân vật nầy qua ngòi bút phù phép của La Quán Trung. Nên, có nhiều
chuyện hoàn toàn bịa đặt mà người đọc Tam Quốc Diễn Nghĩa tin, và tưởng đó là sự
thật.
Thực
tế, chẳng mấy ai biết sự thật về Quan Công.
Quan
Công sanh tại Giải Lương, quận Hà Đông. Có thuyết nói ông sinh tại Bồ Châu, lại
có thuyết nói ông quê ở Vận Thành, tỉnh Sơn Tây, miền bắc của Trung Quốc. Trong
chính sử không xác định cũng không loại trừ các giả thiết đó.
Quan
Công là con của Quan Nghị (關毅), tự Đạo Viễn (道遠), Quan Nghị là con của Quan Thẩm (關審), tự Vấn Chi (問之). Trong TAM QUỐC CHÍ
của Nhà Sử Học Trần Thọ (không phải tiểu
thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, của La Quán Trung, nhưng do không phân định được,
một số người vẫn gọi Tam Quốc Diễn Nghĩa
với tên TAM QUỐC CHÍ) lâu nay được
các nhà sử học ở nước Trung Hoa công nhận là chính sử, không có đề cập đến cha
cùng ông nội của Quan Công nên người viết chẳng biết họ học hành có đỗ đạt hoặc
có đứng trong hàng ngũ quan lại hay không?
Theo
Tam Quốc Diễn Nghĩa, năm sinh của Quan Công là 162 sau Tây lịch, nhưng không
được các tài liệu chính thống xác nhận. Ông mất tháng 12 năm Kiến An thứ 24.
Theo
chính sử, tên thật của Quan Công (關公) là Quan Vũ (關羽), hiệu là Vân Trường (雲長), tự Trường Sinh (長生), sinh khoảng năm 162 (?) chết khoảng 23/1/220 đến 21/2/220 sau Tây lịch.
Quan
Công còn một cái tên khác rất ít người biết, là Quan Long Phùng.
Cả
cuộc đời, Quan công chưa hề được phong tước Công. Một tước đứng đầu trong năm
tước Công -Hầu - Bá - Tử - Nam.
Người
đời gọi Quan Vũ là Quan Công, vì chữ công (公) trong tước Công và
chữ công (公) có nghĩa là “ÔNG” cùng là một chữ. Hai chữ Quan công có nghĩa là
“Ông Quan” tức là “Ông (họ) Quan”,
như một số người gọi kẻ viết bài nầy là “Ông Thái” (= Ông (họ) Thái). Vì thế, chữ công sau chữ Quan không thể viết hoa.
Do sự nhập nhằng của chữ công (公), và, dù bộ tiểu thuyết được viết vào cuối triều Nguyên và đầu
triều Minh, bởi người viết vốn dòng quý tộc, có cảm tình với trào Hậu Hán rồi Thục Hán là La Quán Trung (羅貫中), tự Bản,
hiệu là “Hồ Hải Tản Nhân”. Sinh và
sống trong khoảng thời gian từ năm 1300 đến năm 1400. Nhưng có giả thuyết ông
sinh năm 1328 và mất năm 1398.
Ngoài ra,
khi Tam Quốc Diễn Nghĩa ra đời, giới độc giả bình dân cùng thời La Quán Trung kiến
thức kém, lại nghe theo lời của những kẻ cố ý lộng giả thành chân, từ chỗ Quan
công “Ông (họ) Quan”, biến thành ông
“Quan Công = ông họ Quan mang tước Công.
Gọi tắt là Quan Công”. Đây là một trong những hình thức “SAI dùng lâu thành
ĐÚNG”.
Quan công vốn hàn vi, phải bán đậu phụ mưu
sinh (tào hủ nước đường, nghĩa là ngày
ngày gánh hai thùng gỗ, một đầu có bếp than để hâm nóng tàu hủ, đầu kia để chén
bát và nước rửa). Tuy nhiên, vẫn được học cả văn lẫn võ. Nhưng, không nghe
nói ai là thầy dạy võ, và ai là người dạy chữ nghĩa cho ông ta. Do đó, nhiều học
giả ngày nay nghĩ La Quán Trung, thần tượng hóa nhân vật Quan Vân Trường, để
đưa tới ý đồ: “đây là một nhân vật văn vỏ song toàn”.
Về tính tình Quan
Công được La Quán Trung “ca” là người trung liệt, tiết tháo, vũ dũng, hào hiệp,
ghét kẻ ác, thường bênh vực người yếu. Nhưng,…
Theo
nhận xét riêng của người viết bài nầy, Quan công chỉ là một tướng võ biền, hữu
dõng vô mưu, tính khí kiêu căng, ngạo mạn, kém văn hóa, thủ đoạn vặt, anh hùng
rơm, thất tín, hẹp hòi, ích kỷ, bất tuân quân lệnh và hay lộng ngôn,… Chúng tôi
sẽ chứng minh sau.
Nhờ thiên phú Quan công có được thể lực sung mãn, cường tráng, có sức
mạnh (song, chưa phải là vô địch), bản
chất ngang tàn hay giúp kẻ yếu hèn, chống phường hung bạo. Vì vậy, mới gây án
giết người, phải lẫn trốn, tha phương cầu thực.
Trên đường trốn tránh tầm nã về tội sát
nhân, Quan công lưu lạc nhiều nơi, cuối cùng gặp Trương Phi và Lưu Bị ở Quận
Trác. Ba người hợp ý, uống máu ăn thể kết nghĩa anh em, ở trong một khu vườn
đào (Đào viên). Từ đó dựng thành câu chuyện “Đào Viên Kết Nghĩa”.
Trong thời Lưu Bị, Quan công, được xem là một
trong năm vị tướng tài của Thục Hán, được cho là đứng đầu trong ngũ hổ tướng:
Quan công, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung, Mã Siêu. Trong thực tế tài cán
của năm người đều ngang ngửa nhau. Mỗi người có một cái giỏi riêng. Tuy nhiên,
xét cặn kẽ, Quan công còn thua xa Triệu Vân (Triệu Tử Long) về võ công, nhân
cách, đức độ, tài thao lược, kiến thức… Triệu Vân mới là nhân vật trí dũng song
toàn.
Quan
công qua mô tả của cây viết La Quán Trung trong Tam Quốc Diễn Nghĩa thì mình
cao 9 thước (= 2.00m) râu năm chòm dài thuột, mặt đỏ như gấc, mắt phượng, mày
tằm,… tay cầm Thanh Long Yển Nguyệt Đao, nặng 82 cân (= 49kgs), cỡi ngựa xích
thố.
Do
ái mộ nhân vật Quan công cách mù quáng, tác giả La Quán Trung đặt vào tay Quan
Công cây đại đao nặng 49kgs, để nảy sinh hình ảnh giả tưởng buồn cười. Khi ra
trận vì đao quá nặng nên Quan công phải khệ nệ ôm cây đao lảo đảo bước từng
bước, từng bước chậm chạp… thì làm thế nào vung cây đao 49kgs khi chống giặc?
Điểm
sai thứ hai là, từ thời Tam Quốc (三國) 190-280, trở về trước,
chỉ có 5 loại bảo đao: Thiết đao, Cương Đao, Nhu Cương Đao, Thanh Cương Đao,
Bảo Đao.
Quan
công cũng chưa từng sử dụng một trong năm loại bảo đao nầy. Nói chi đến Thanh
Long Yển Nguyệt Đao, chưa hề xuất hiện vào thời Tam Quốc.
Sau
thời Tam Quốc bảy, tám trăm năm, đến đời Tống (960-1279) loại đao Thanh Long
Yển Nguyệt mới xuất hiện lần đầu.
Nhà
Tống (宋朝) được
xem là một trong các quốc gia đầu tiên trên thế giới phát hành ra tiền giấy, là
nhà nước Trung Quốc đầu tiên đã thành lập nên lực lượng hải quân thường trực
lâu dài. Triều đại này đã chứng kiến việc lần đầu tiên sử dụng thuốc súng, cũng
như nhận thức về cách sử dụng la bàn. Và, từ đó phương thức sản xuất vũ khí tân
tiến hơn, nhờ vậy mới có khả năng chế tạo Thanh Long Yển Nguyệt Đao. Trong sách
"Vũ Kinh Tổng Yếu" thời
Tống có tranh vẽ mô tả loại đao này.
Các
sử gia hiện nay cho rằng triều Tống hưng thịnh bằng hoặc hơn triều đại Nhà
Đường.
Ngoài ra, trong các thư tịch lịch sử
Trung Quốc, thời Tam Quốc không có nhân vật nào sử dụng vũ khí có tên gọi
“Thanh Long Yển Nguyệt Đao”.
Để chứng minh Quan Vũ chưa từng dùng Thanh
Long Yển Nguyệt Đao. Và, có thể ông ta chỉ dùng một trong các loại xà mâu, một
loại vũ khí cùng loại với thương, cán dài, nhưng lưỡi xoắn.
Trong đoạn văn trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, tác
giả La Quán Trung mô tả, trích: “… Quan Vũ "thúc ngựa ĐÂM (Nhan) Lương
giữa vạn quân" (ngưng trích).
Qua đoạn văn trên cho thấy Quan công chỉ có
thể dùng mâu hoặc thương (từ xa) thúc ngựa (tới, mới) ĐÂM (được) Nhan Lương. Trong khi, Thanh
Long Yển Nguyệt Đao, chỉ có thể chém, chặt chứ KHÔNG THỂ ĐÂM.
NHỮNG CÁI YẾU CỦA QUAN CÔNG:
* Mưu lược kém cõi:
- Sách Thục ký chép rằng: Một lần Lưu Bị cùng đi săn với
Tào Tháo, Quan Vũ lén khuyên Lưu Bị nên nhân lúc mọi người hỗn loạn mà giết Tào
Tháo, nhưng Lưu Bị không nghe vì tình thế không cho phép manh động. Điều nầy
cho thấy cái nhìn chiến lược của Quan công còn thua xa Lưu Bị.
- Tháng 9 năm 198, Tào Tháo và Lưu Bị hợp
sức mang quân đến đánh Từ châu để trừ Lã Bố. Quan Vũ theo dự trận này. Quân Tào
vây thành đến tháng 10 năm đó, Lã Bố khốn cùng phải chạy lên lầu Bạch Môn. Trong
khi đó, Quan công đã để lộ…
* Bản
chất thấp hèn, chấp nhận làm điều hạ tiện:
Sách Thục ký chép rằng: “Trong bước đường cùng, Lã Bố đã
mang vợ mình đến chỗ (dâng cho) Quan
Vũ để lấy lòng ông, hy vọng ông nói giúp với Tào Tháo. Quan Vũ hỏi Tào Tháo rằng (ông ta, tức Quan công) có nhận người đàn bà này được không, Tào
Tháo nói rằng được! Nhưng sau đó Quan
Vũ hỏi thêm mấy lần nữa khiến Tào Tháo cảm thấy hứng thú BÈN SAI ông (Quan
công) mang vợ Lã Bố tới. Khi Quan Vũ
mang vợ Lã Bố đến cho Tào Tháo, Tào ưng ý và giữ lại chỗ mình.”(có nghĩa là
không cho Quan công đem về làm vợ hay hầu thiếp)
Đoạn văn trên đây cho thấy (như trong câu chuyện) hành vi của Quan công kém cỏi dưới mức bình thường, nếu Quan công là
kẻ chính nhân quân tử, chắc chắn ông ta sẽ:
- Không nhận vợ người (vợ Lã Bố) làm của hối lộ cho mình (Quan công).
- Không hạ mình làm chuyện “dắt gái” dâng cho
người khác (Tào Tháo).
- Việc Quan công hỏi Tào Tháo năm lần, bảy
lần chẳng khác nào khuyến khích Tào Tháo hãy dung nạp vợ của người khác đã dâng
cho mình (Quan công), nhưng rồi đem vợ của người ta (vợ Lữ Bố) đi dâng cho chủ mới
(Tào Tháo) với ý đồ mưu cầu lợi lộc cá nhân!
Thử hỏi, hành vi của Quan công có xứng đáng
là hành động của người có đầy đủ tiết, liệt, trung, hiếu không?
* Phản
chúa, phản bạn, vong thề:
- Đầu năm 200, Tào Tháo chia quân đi chuẩn
bị đánh Từ châu. Lưu Bị biết mình thế yếu bèn sai người đi cầu cứu Viên Thiệu
nhưng Thiệu chần chừ không ra quân. Tào Tháo gấp rút tiến đánh Từ châu. Vài
ngàn quân của Lưu Bị không chống nổi, bị thua tan tác. Lưu Bị bỏ chạy sang Hà
Bắc theo Viên Thiệu, Trương Phi trốn về Nhữ Nam, gia quyến Lưu Bị đều bị bắt; Quan
Vũ không có đường chạy, buộc phải đầu hàng Tào Tháo, theo về Hứa Xương.
Làm tướng thua trận, bỏ chủ (là Lưu Bị) mà người chủ đó
đã từng uống máu ăn thề sinh tử có nhau, nhưng đến khi cùng đường, lại hàng
giặc, vong thề, bội ước, tham sống, sợ chết chẳng khác gì kẻ thất phu hạ tiện…
Trong bước khốn cùng Quan công đã thể hiện bản chất thấp hèn của kẻ tham sanh
quý tử, bất chấp khí tiết anh hùng, sự trung thành của kẻ bề tôi. Ngoài ra đã
bội ước vong thề với bằng hữu…
* Háo
thắng, bỏ đại nghĩa, ham hố, tranh giành địa vị:
- Khi Mã Siêu (về sau là một trong ngũ hổ tướng của Lưu Bị) mới quy hàng Thục
Hán, Quan công đang trấn nhậm Kinh Châu, hay tin, liền vội viết thư cho Chư Cát
Lượng (Khổng Minh), sai người ngày đêm cấp tốc về trao cho Khổng Minh, đòi về tranh
tài cao thấp với Mã Siêu để phân thắng bại. Vốn là kẻ đa mưu túc trí, Khổng
Minh biết ngày ý đồ của Quan công, bèn viết thư phúc đáp trong đó phải vỗ về
Quan công và ca ngợi: “Mã Siêu tuy có
giỏi, nhưng làm sao qua được ông là kẻ “tài nghệ tuyệt luân”. Quan công hả
dạ, mặt mày hớn hở, liền vừa vuốt râu vừa cười thỏa mãn, thốt lên: “Khổng Minh thật hiểu ý ta!”
“Khổng
Minh thật hiểu ý ta”, đó là lời Quan công khen người (khen Khổng Minh), nhưng Quan công nào biết, lời “khen” ấy có khác
nào ông ta tự mắng vào mặt mình! (mặt Quan công).
* Và
là kẻ lộng ngôn:
Năm 215, khi Quan công đang phòng thủ để ngăn trở Tào
Ngụy cướp thành. Tào Tháo nghĩ nên kết hợp với Tôn Quyền, nên sai người hẹn với
Tôn Quyền đồng tấn công Kinh Châu để hóa giải hận thù giữa hai nước Ngụy (Tào
Tháo) với Ngô (Tôn Quyền).
Trong khi ấy, Lưu Bị nhận thấy binh lực
Thục Hán yếu kém, bèn nghĩ cách nhượng bộ Tôn Quyền, bèn đề nghị trao cho ĐôngNgô
ba quận Quế Dương, Linh Lăng và Trường Sa. Ngược lại, phía Tôn Quyền (Đông Ngô)
giao Nam Quận lại cho Thục Hán. Do đó, Tôn Quyền với Thục Hán chánh thức giảng
hòa và cả hai bên đều đồng ý phân lại ranh giới của Kinh Châu. Phía Đông Ngô,
tướng Trình Phổ giao quận Giang Lăng cho Quan công. Xong, Trình Phổ đến Giang Hạ
nhận chức Thái Thú.
Nhân sự trao đổi ấy, Tôn Quyến muốn bắt tay
chặt chẽ với Lưu Bị, đồng thời muốn có giao hảo tốt với Quan công để kéo dài
tình hòa ước. Và, nhất lả để liên minh chống nước Ngụy (Tào Tháo).
Trước đó 6 năm (tức năm 209, Lưu Bị cưới em
gái của Tôn Quyền là Tôn Thượng Hương về làm phu nhân, nhưng cả Tôn Quyền cùng
Lưu Bị đều xem cuộc hôn nhân đó nhằm phục vụ
lợi ích đất nước, vì vậy, cuộc hôn nhân đỗ vỡ. Năm 213, Tôn phu nhân trở
về Đông Ngô.
Trước khi quyết định bỏ Thục hợp cùng Tào.
Tôn Quyền phái sứ giả đến cầu hôn con gái Quan công cho con trai mình, để xem
thử ý của Quan công như thế nào. Không ngờ vốn kẻ võ biền, không biết và không
đặt quyền lợi Thục Hán lên trên. Quan công chẳng những không chấp nhận mà còn
mạt sát Tôn Quyền trước mặt sứ giả nhà Ngô: “Hổ nữ sao có thể gả cho khuyển
tử”. Chính sự lộng ngôn nầy về sau đã đưa Quan công vào cõi chết.
“Hổ
nữ sao có thể gả cho khuyển tử”. Quan công tự cho ông ta là giống nòi hổ,
còn dòng giống của Tôn Quyền chỉ là loài chó. Nhưng, thực tế Ai hổ, Ai chó đây?
Trong khi Quan công chỉ là anh chàng ngày
ngày gánh tào hủ mềm (còn gọi là đậu phụ) ăn với nước đường đi bán để mưu sinh.
Thì Tôn Quyền cùng Tôn Sách (孫策) 175 – 200,
là con của Tôn Kiên một viên tướng thời Hán mạt.
Tôn Kiên, (孫堅) 155-191, tên tự là Văn Đài (文臺), làm Thái Thú trường Sa, hạ tướng của Viên
Thuật. Khi dẫn quân đi đánh Ích Châu, Lưu Biểu sai bộ hạ là Hoàng Tổ bắn chết ở Hiện Sơn (ngoại thành, thành phố Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc ngày nay), ông là
người đặt nền móng xây dựng nước Đông Ngô thời Tam Quốc. Khi ấy Tôn Sách 16
tuổi còn Tôn Quyền mới lên 10.
Sau khi Tôn Kiên chết, Tôn Sách, (孫策) 175 - 200 đem thi hài phụ thân ông về Khúc A (曲阿, ngày nay thuộc Giang Tô) để chôn cất trước
khi tiến về Đan Dương (丹楊, ngày nay
là Tuyên Thành, An Huy, tại đó cậu của ông là Ngô Cảnh (吳景) đang làm thái thú.
Khi ở với người Cậu, Tôn Sách lập ra một
đội quân nhỏ vài trăm người. Lực lượng nhỏ này là quá yếu ớt để ông có thể
thiết lập quyền lực riêng của chính mình. Ông trốn người cậu về đầu Viên Thuật.
Trong khi dưới trướng của Viên Thuật, Tôn Sách bị Viên Thuật gạt
nhiếu lần (phần chữ nghiêng dưới đây
trích nguyên văn từ Tự Điển Bách Khoa Toàn Thư) Trích:
“Viên
Thuật rất có ấn tượng về Tôn Sách và thường than vãn rằng ông không có người
con trai nào được như Tôn Sách. Ông này cũng trao lại các đơn vị quân đội trước
đây thuộc quyền Tôn Kiên cho Tôn Sách.
Ban
đầu, Viên Thuật hứa sẽ cho Tôn Sách làm thái thú Cửu Giang nếu ông đánh được
quận này. Tuy nhiên khi Tôn Sách hạ thành, Viên Thuật lại giao chức Thái thú
cho Trần Kỷ (陳紀).
(Xin
mời quý độc giả đón đọc bài 2)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Atlanta USA ngày 18/03/2016
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét