Home
» Lý luận phê bình
» Trang tiểu luận & phê bình văn học Mai An Nguyễn Anh Tuấn (Đạo diễn điện ảnh)
Trang tiểu luận & phê bình văn học Mai An Nguyễn Anh Tuấn (Đạo diễn điện ảnh)
Thứ Ba, 20 tháng 10, 2015
Người ta mới làm chính trị về môi trường chứ chưa làm môi trường… – Bài viết Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Thứ hai - 05/05/2014 21:55
PGS-TS Nguyễn Đắc Hy thực hiện công trình MÔI TRƯỜNG VÀ CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN trong nhiều năm "đau đớn và tự ái" - vì "người ta đã làm Môi trường mà không hiểu nội dung thực sự của Môi trường. Người ta mới làm chính trị về Môi trường chứ chưa làm Môi trường !" .... Sự trì trệ, bảo thủ, tầm nhìn hẹp, yếu kém về chuyên môn, cộng với tình trạng tham nhũng khoa học đã khiến Sự nghiệp Môi trường của nước ta trở nên lạc hậu so với thế giới hàng thập kỷ, và là căn nguyên của một hệ thống chính sách sai lầm về các vấn đề Môi trường. Điều đó dẫn tới hệ quả là môi trường bị ô nhiễm tràn lan khủng khiếp chưa từng thấy, Tài nguyên (tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên con người) bị khai thác bừa bãi phung phí ...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
_____
NGƯỜI TA MỚI LÀM CHÍNH TRỊ VỀ MÔI TRƯỜNG
NGƯỜI TA MỚI LÀM CHÍNH TRỊ VỀ MÔI TRƯỜNG
PGS-TS Nguyễn Đắc Hy thực hiện công trình MÔI TRƯỜNG VÀ CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN trong nhiều năm "đau đớn và tự ái" - vì "người ta đã làm Môi trường mà không hiểu nội dung thực sự của Môi trường. Người ta mới làm chính trị về Môi trường chứ chưa làm Môi trường !" .... Sự trì trệ, bảo thủ, tầm nhìn hẹp, yếu kém về chuyên môn, cộng với tình trạng tham nhũng khoa học đã khiến Sự nghiệp Môi trường của nước ta trở nên lạc hậu so với thế giới hàng thập kỷ, và là căn nguyên của một hệ thống chính sách sai lầm về các vấn đề Môi trường. Điều đó dẫn tới hệ quả là môi trường bị ô nhiễm tràn lan khủng khiếp chưa từng thấy, Tài nguyên (tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên con người) bị khai thác bừa bãi phung phí khiến những ai có lương tri và hiểu biết đều phải đau xót đến đứt ruột...
Một buổi chiều, ông Nguyễn Đắc Hy đến nhà tôi, giơ ra một bài báo có tiêu đề "Costa Rica - Quốc gia hạnh phúc nhất thế giới" hồ hởi khoe: "Cậu đọc ngay đi, hay quá!" Trước khi đưa tờ báo cho tôi, ông còn đọc vài đoạn, không giấu nổi sự vui sướng khi phát hiện ra điều cực lý thú: "Đó là khu bảo tồn sinh thái tốt nhất trên hành tinh của chúng ta.... Costa Rica cũng không chạy theo đồng đô-la của các viện bào chế thuốc tây Âu Mỹ hay của các tập đoàn khai thác năng lượng phương Tây để bán rẻ tài sản thiên nhiên của mình...." (Sức khỏe và Đời sống)
Thời gian này, ông đang viết cuốn sách "Môi trường và con đường phát triển". Cứ có ý gì hay hay ông lại gọi điện thoại cho tôi, hoặc gọi tôi tới nhà để chia sẻ. Một hôm, nhân tiện đang đọc cuốn sách "Tiếng chuông cảnh tỉnh cho thế kỷ XXI" của hai tác giả Aurelio Peccei (Italia) và Daisaku Ikeda (Nhật) viết những năm cuối của thế kỷ trước, tôi đã đọc cho ông nghe những dòng dẫn luận mà sau đó ông trích dẫn vào công trình của ông: “Tình hình toàn cảnh thế giới đang trở nên xấu đi, và một điều rất thực tế là mối nguy hiểm do những cuộc khủng hoảng hiện nay gây ra đang trở nên nghiêm trọng hơn... Thật vô lý nếu chúng ta xao lãng những cơ hội to lớn mà nhân loại có được do kết quả của tri thức cùng những phương tiện khoa học; và cũng thật vô lý nếu chúng ta từ chối trách nhiệm cải thiện số phận của chính chúng ta”. Trong khi cố gắng “thức tỉnh con người”, thực hiện “cuộc cách mạng con người”, hai tác giả đó đã nhấn mạnh yếu tố “con người” như một dạng năng lượng đặc biệt có sức mạnh kỳ diệu: “Chúng tôi cho rằng, rất nhiều vấn đề chủ yếu hiện nay là thuộc về tư tưởng và đạo đức, và không có một sức mạnh khoa học kỹ thuật nào hoặc biện pháp kinh tế nào có thể giải quyết được những vấn đề đó... Khi chúng ta tự hoàn thiện mình từ bên trong, chắc chắn chúng ta không bao giờ bị sụp đổ”... Tôi nói với ông Hy: Cái suy tưởng về giá trị vô song của năng lượng đạo đức - tinh thần - tư tưởng sẽ cứu rỗi thế giới đó, từ hơn hai nghìn năm trước, Đức Phật đã đề cập tới. Và trong kỷ nguyên năng lượng - khí hậu, nhất là trong thế kỷ XXI của chúng ta, những vấn đề môi trường và phát triển trong mối quan hệ tư tưởng & đạo đức lại được đặt ra một cách gay gắt hơn bao giờ hết. Martin Luther King (nhà hoạt động dân quyền người Mỹ gốc Phi, và là người đoạt giải Hòa Bình năm 1964) đã từng nói: "Trong đống ngổn ngang hài cốt và tàn dư của nhiều nền văn minh, nổi lên một dòng chữ đầy nuối tiếc: Quá muộn rồi. Sau đây, chúng ta sẽ đi về đâu, sự hỗn loạn hay một cuộc sống cộng đồng?"
Trong quá trình phát triển, con người đã nhận thức được một cách thấm thía hậu quả chính là từ trong sự phát triển - đó là ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và dẫn đến các tai biến môi trường, các nhiễu loạn sinh thái, điều đó đã và đang tác động đến an ninh xã hội, an ninh quốc gia và nhân loại. Nhận thức được những vấn đề môi trường nhức nhối đó, các quốc gia và cộng đồng quốc tế đã tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Trái Đất đầu tiên về môi trường ở Stockholm, và ngày 5/6/1972 đã trở thành ngày Môi trường thế giới. Kể từ đó đến nay đã gần 40 năm; mặc dù các quốc gia đã và đang thực thi nhiều biện pháp bảo vệ môi trường trong phát triển xã hội, song những vấn đề môi trường ngày càng trở nên nguy hiểm hơn, nhất là trong các quốc gia nghèo mà năng lực chống đỡ bị hạn chế... Giữa lúc cả xã hội loài người đang xao xác tơi tả bởi những vấn đề Môi trường cùng các hệ lụy đau lòng bởi Môi trường bị tàn phá, Tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, giữa khi con người trên khắp hành tinh đang bị Thiên nhiên trả thù đích đáng bởi sự thiển cận, độc ác, tham lam của chính mình, thì sự xuất hiện của một công trình nghiên cứu công phu như "MÔI TRƯỜNG VÀ CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN" vào lúc này kể đã là quá muộn! Nhưng, muộn còn hơn không. Cùng với nỗ lực của các cá nhân, các tổ chức xã hội trong nước và quốc tế, cuốn sách mới nhất của PGS-TS Nguyễn Đắc Hy đã góp một tiếng nói quan trọng vào sự cảnh tỉnh cộng đồng: cần có một cách ứng xử văn minh và khoa học đối với Trái đất chung của chúng ta.
Công trình "MÔI TRƯỜNG VÀ CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN" (Nhà xuất bản CAND - Hà Nội, 2011) dày gần ngàn trang in khổ lớn bắt đầu với lời đề từ: "Văn minh sinh thái là cội nguồn của phát triển Hạnh phúc nhân loại". Trong Phần hai cuốn sách có tên: "Sinh thái nhân văn- Năng lượng kỳ diệu", tác giả đã viết về tư tưởng chủ yếu của cuốn sách như sau: "Nhận thức về màu xanh của phát triển, của hoà bình trước hết phải xuất phát từ nhận thức về tự nhiên, quy luật của tự nhiên, quy luật của phát triển theo lẽ sống công bằng của xã hội...". Công trình này có thể nói là một "tập đại thành" những vấn đề về Môi trường và Phát triển xã hội cả trên bình diện lý thuyết lẫn thực tiễn, vốn không có nhiều trong lĩnh vực này. Nó là sự tổng kết sau nhiều thập kỷ chiêm nghiệm, vật vã đau đớn của tác giả qua công tác quản lý Nhà nước về môi trường, ở nhiều cơ quan khác nhau... Trước những tác động nguy hiểm của biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng như các thiên tai: bão lũ, động đất, sóng thần v.v. đã, đang và sẽ gây ra những thiệt hại to lớn về người và của cải cho dân tộc và các vùng lãnh thổ trên thế giới, trong khi Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới đang đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh sinh thái và thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, thì sự xuất hiện của công trình "MÔI TRƯỜNG VÀ CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN" là một hành động chứa đầy ý nghĩa tích cực, và giống như một lời kêu gọi khẩn thiết, nóng bỏng tính thời sự!
Đây là cuốn sách tiếp theo cuốn “Phát triển bền vững trong tầm nhìn của thời đại”
(xuất bản năm 2003. Và cả hai cuốn ông đều không được hưởng một đồng nhuận bút nào!). Cuốn sách mới này thực chất là sự tiếp tục dòng suy tưởng về “những vấn đề môi trường và sinh thái trong phát triển” từng được các nhà kinh điển về triết học, kinh tế chính trị học, địa lý học, sinh thái học... kiểm nghiệm, đúc rút ra nhiều quy luật của sự phát triển.
Có một điều rất lý thú, do chính tác giả bộc lộ: một trong những động lực để ông hoàn thành được công trình của đời người này, lại xuất phát từ mấy câu thơ, sau một lần được dự cuộc tọa đàm về thơ Trần Dần tại L' Espace (Trung tâm văn hóa Pháp - 24 Phố Tràng Tiền, Hà Nội): "Tôi hiểu rằng tư duy và kinh nghiệm của mình còn quá nhỏ hẹp trong biển cả của môi trường và sự phát triển... Tất cả những vấn đề quá rộng lớn đó khiến tôi nhiều lúc không đủ năng lực và can đảm để hoàn thành cuốn sách, không dám viết tiếp, vì càng viết lại càng cảm thấy sự hạn chế của mình. Song, sau khi được nghe thơ Trần Dần: Tôi đói/ mọi cái gì/ tôi chửa biết,/ mọi khát khao/ hy vọng/ loài người... tôi đã được truyền một nghị lực mới mẻ không ngờ... "
Ông NĐH thực hiện công trình này trong nhiều năm "đau đớn và tự ái" như ông từng nói với tôi- vì "người ta đã làm Môi trường mà không hiểu nội dung thực sự của Môi trường... Người ta mới chỉ làm chính trị về Môi trường chứ chưa làm Môi trường". Suốt một thời gian dài (từ 1983 tới nay), nhiều lần ông đã kiến nghị với những người có trách nhiệm: vấn đề không chỉ là bảo vệ Môi trường, mà còn phải bảo vệ Tài nguyên và rất nhiều vấn đề khác quan trọng không kém của Môi trường, vì thế cần phải có Luật Môi trường! Nhưng tiếng nói của ông bị chết yểu, cho đến nay vẫn chỉ là Luật Bảo vệ Môi trường! (Hiện giờ mới đang đề nghị đổi thành Luật Môi trường). Sự trì trệ, bảo thủ, tầm nhìn hẹp, yếu kém về chuyên môn, cộng với tình trạng tham nhũng khoa học đã khiến Sự nghiệp Môi trường của nước ta trở nên lạc hậu so với thế giới hàng thập kỷ, và là căn nguyên của một hệ thống chính sách sai lầm về các vấn đề Môi trường. Điều đó dẫn tới hệ quả là môi trường ô nhiễm tràn lan khủng khiếp chưa từng thấy, Tài nguyên (tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên con người) bị khai thác bừa bãi phung phí khiến những ai có lương tri và hiểu biết đều phải đau xót đến đứt ruột. Người ta đang tàn phá bãi biển miền trung vì khai thác ti-tan ồ ạt là một minh chứng hùng hồn mới nhất! (Xin đọc loạt phóng sự: "Tanh bành bãi biển miền trung" của Quốc Dũng trên tạp chí Nhà báo và Môi trường, năm 2013)
Ông tâm sự: "Cuốn sách “Môi trường và Con đường phát triển” được viết trong thời gian cuối của cuộc sống, khi tôi đã nhận ra được một điều: tri thức của con người thì mênh mông, triết lý của cuộc sống thì trường cửu, song hành động của nhân loại vì nhân sinh thì đầy rẫy những bất cập, thậm chí là tội lỗi... ngược hẳn lại với những điều mà tôi đã học được về giá trị của nền văn minh nhân loại vốn đề cao các quan hệ giữa phát triển với tự nhiên và xã hội, cũng như sự điều khiển nhịp nhàng lương thiện của các thể chế xã hội - cộng đồng trong mối liên hệ sinh quyển và con người… Nỗi buồn, niềm lo lắng và sự bất an cũng là một nguồn cảm hứng lớn khi tôi cầm bút...Có lẽ bài học lớn nhất mà tôi rút ra được khi suy nghĩ về cuốn sách này là: mọi sự sống của tự nhiên và xã hội loài người đều có các giới hạn, và khi vượt quá giới hạn sẽ xảy ra các nhiễu loạn; khi đó con người và xã hội phải điều chỉnh đề tiến lên nấc thang phù hợp với sự phát triển mới. Như vậy, quy luật phát triển cũng chính là quy luật của tiến hoá nhân loại trong sinh quyển..."
Với công trình này, có thể nói, lần đầu tiên những vấn đề lý luận về Môi trường ở nước ta mới được đặt ra một cách hệ thống. TS Nguyễn Đắc Hy đã phân tích khá kỹ lưỡng hai nội dung khái niệm: "Tài nguyên Thiên nhiên" và "Tài nguyên Con người", cùng khái niệm "Lượng giá trị của tài nguyên" và những vấn đề kinh tế học của Môi trường. Đặc biệt, tác giả đã chỉ ra rằng: vấn đề tranh chấp Tài nguyên là điều vượt ra ngoài các hệ thống chính trị! Trong chương IV: "Vốn", sau khi nói đến tình trạng khai thác bừa bãi vốn thiên nhiên, vốn con người suốt những năm qua, tác giả thốt lên: vốn tài nguyên đó của Đất nước nếu không biết quý trọng, không biết khai thác, quản lý một cách khoa học và có lương tâm thì sẽ có tội lớn với Dân tộc! Nhiều luận điểm của ông đã khiến ông mâu thuẫn với bạn bè, với lãnh đạo. Không ít người quý ông nhưng không hiểu ông, và cứ dần xa ông. Ông đã mất đi nhiều bạn vì không cùng quan điểm. Ông bị lãnh đạo các cơ quan nhìn bằng con mắt ghẻ lạnh, vì dám nói tới sự bất cập, phi lý trong chuyện khai thác khu công nghiệp, sân golf... dẫn tới mất đất nông nghiệp, trong việc đầu tư, xuất khẩu lao động bừa bãi... Ông bảo: ở nước ta, người nghiên cứu kinh tế thường chỉ quan tâm đến đồng tiền nhảy múa mà bỏ quên vấn đề Tài nguyên (Thiên nhiên và Con người). Từ nguyên lý kinh điển của Adam Smith cách đây 3 thế kỷ (một học thuyết kinh tế cho rằng của cải một quốc gia gồm đất đai + vốn sản xuất + vốn con người, và đã chỉ ra mối liên hệ giữa những thay đổi của cải và tính bền vững của sự phát triển), tác giả "Môi trường và con đường phát triển" đã cảnh báo: nếu một nước mà tài nguyên bị khai thác cạn kiệt hay dùng vào các mục tiêu công nghiệp, thương mại không cân đối với phát triển con người trong tương lai thì điều đó đồng nghĩa với suy thoái và nghèo đói. Ông khẳng định: "Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, nơi nào mà các chỉ số bền vững về kinh tế - xã hội như: mức sống, sức khoẻ, văn hoá, dân số, tài nguyên thiên nhiên và chất lượng môi trường ngày một gia tăng nơi ấy sẽ tồn tại và phát triển. Chỉ có áp dụng đầy đủ các nguyên lý sinh thái học chúng ta mới có thể xây dựng được nền kinh tế xã hội bền vững."
Là người làm phim độc lập vốn quan tâm thường xuyên đến Môi trường và Phát triển xã hội, chúng tôi đã coi cuốn sách của tiến sĩ Nguyễn Đắc Hy như một "cẩm nang" đặc biệt, thậm chí như một thứ "Thánh kinh" mới để thám hiểm vào biết bao vấn đề ngổn ngang và hóc búa về Môi trường, để từ đó soi vào những vấn đề xã hội nóng bỏng - như một góc nhìn cơ bản vào thực chất của sự phát triển bền vững cần có của xã hội chúng ta cả hôm nay lẫn mai sau...
Xin được trích dẫn một đoạn quan trọng của cuốn sách, trong Phần hai: "Sinh thái nhân văn-Năng lượng kỳ diệu":
Xét cho cùng, môi trường cũng là một thứ năng lượng đặc biệt, mà chỉ vì không hiểu biết về nó, con người ta đã huỷ hoại nó! Môi trường hoàn toàn phụ thuộc vào các cách thức phát triển của xã hội, phụ thuộc ở sự phát triển hài hoà giữa hệ thống kinh tế - xã hội, với hệ tự nhiên.... Tương lai tươi sáng của môi trường ra sao? Cần làm gì để tránh những hiểm hoạ, tai biến và các sự cố dẫn đến huỷ diệt, để cuộc sống con người thoát khỏi nghèo đói cùng biết bao nhiêu bệnh tật bởi môi trường ô nhiễm, các hệ sinh thái bị huỷ hoại?... Môi trường và con đường phát triển phải nằm trong chủ quyền tài nguyên, tài sản quốc gia và trong hệ sinh quyển chung, kết hợp giữa tinh thần nhân văn dân tộc với tinh thần hợp tác vì năng lượng nhân quyền. Và những giá trị tài nguyên quốc gia đó tuy đã đem lại các giá trị gia tăng đích thực cho nền kinh tế đất nước, song đương nhiên không phải là tăng trưởng tư bản từ tài nguyên - tăng tài sản cho quốc gia, mà chính là kinh doanh - thương mại - bán các nguồn tài nguyên của đất nước; vì vậy, khi phân tích, đánh giá tăng trưởng GDP cần phải xem xét các giá trị gia tăng cũng như các giá trị mất đi của các dòng năng lượng tài nguyên tự nhiên... Những điều lớn lao đó có giải quyết được hay không lại phụ thuộc vào sự lựa chọn phát triển, vào nền văn minh của nhân loại mà trong đó, lương tri - đạo đức con người cần đặt lên hàng đầu!
Hà Nội, đầu năm Giáp Ngọ
(Đạo diễn Điện ảnh)
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 05/05/2014
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Em hãy đến tìm tôi nơi bến đợi – Bài viết Mai An Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 05/05/2014
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Em hãy đến tìm tôi nơi bến đợi – Bài viết Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Thứ tư - 02/04/2014 23:52
Nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy đã trân trọng chọn vào phần "Thơ người Thơ đã mất", sách "Thơ bạn Thơ 2" (Nxb Văn học, 2012) một bài thơ hay, lạ: KHI NÀO THẤY, và thương nhớ Bạn Thơ của anh : "Anh Xuân Hoàng ơi, tôi đã tìm thấy bí quyết vì sao Anh viết được những bài thơ hay và vì sao Anh sống hoàn thành một đời thơ đẹp... Thơ Anh, đời thơ Anh còn cần thêm lời đò đưa gì nữa?" Tôi cũng đồng tình với nhà thơ đàn anh NNB. Nhưng tôi vẫn không thể an lòng, nếu chưa nói ra được đôi cảm nhận về bài thơ này mà khi đọc lên một cách chậm rãi, tôi chợt như nghe tiếng đàn dương cầm thánh thót, buồn và trong trẻo của mẹ tôi giữa một trưa hè nóng nực, khiến tôi lặng người ứa lệ...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
EM HÃY ĐẾN TÌM TÔI NƠI BẾN ĐỢI
EM HÃY ĐẾN TÌM TÔI NƠI BẾN ĐỢI
Nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy đã trân trọng chọn vào phần "Thơ người Thơ đã mất", sách "Thơ bạn Thơ 2" (Nxb Văn học, 2012) một bài thơ hay, lạ: KHI NÀO THẤY, và thương nhớ Bạn Thơ của anh: "Anh Xuân Hoàng ơi, tôi đã tìm thấy bí quyết vì sao Anh viết được những bài thơ hay và vì sao Anh sống hoàn thành một đời thơ đẹp... Thơ Anh, đời thơ Anh còn cần thêm lời đò đưa gì nữa?"
Tôi cũng đồng tình với nhà thơ đàn anh NNB. Nhưng tôi vẫn không thể an lòng, nếu chưa nói ra được đôi cảm nhận về bài thơ này mà khi đọc lên một cách chậm rãi, tôi chợt như nghe tiếng đàn dương cầm thánh thót, buồn và trong trẻo của mẹ tôi giữa một trưa hè nóng nực, khiến tôi lặng người ứa lệ...
KHI NÀO THẤY
Khi nào thấy trên đường dài mệt mỏi
Cần nghỉ ngơi đôi chút cạnh dòng song
Em hãy đến tìm tôi nơi bến đợi
Tán đa tôi bóng mát vẫn quen dừng.
Khi nào thấy đời buồn gặm nhấm
Cần một lời tiếp sức để đi xa
Em hãy đến tìm tôi nơi bãi vắng
Biển tôi chờ, con sóng mãi ngân nga.
Khi nào đó, lòng mang thương tích
(Những vết thương vô ý tự gây nên)
Em hãy đến bên tôi, chiều tĩnh mịch
Tôi xin làm con suối tắm cho em.
Nếu cần nữa, tôi là hồ trên núi
Trong hoang vu, im lặng ngắm mây trời
Em hãy đến, chim thiên nga cánh mỏi
Đậu yên lành trên gương mặt hồ tôi.
1/1984
(Trong tập KHI NÀO THẤY- Xuân Hoàng, NXB Hội Nhà Văn, 2006.)
Trong văn chương nghệ thuật Đông -Tây kim - cổ, chúng ta vẫn thường gặp khát vọng lấy thiên nhiên làm chỗ dựa cho tâm hồn, thậm chí lấy chúng làm sự đối lập & tương phản với những mặt trái của xã hội - tác nhân trực tiếp hay gián tiếp gây thương tổn tinh thần. Điều mới lạ ở thơ Xuân Hoàng là: cái khát vọng đó đã hòa nhập hoàn toàn giữa tác giả với nhân vật trữ tình (lòng mang thương tích, đời buồn gặm nhấm...). Nhà thơ tự nguyện hóa thân vào thiên nhiên - tán cây đa, bãi vắng biển cả, dòng suối nhỏ, chiều tĩnh mịch, bầu trời chốn hoang vu, gương mặt hồ trên núi, để dành cho những cảnh ngộ: Cần nghỉ ngơi đôi chút, Cần một lời tiếp sức để đi xa, chim thiên nga cánh mỏi... Và cũng không hứa hẹn gì to tát, chỉ rất khiêm nhường: làm chút bóng mát, làm con sóng ngân nga, làm dòng nước tắm nhỏ, làm bến đậu yên lành... cho những tâm hồn thương tích hay mệt mỏi. Những thi liệu - thi ảnh ở đây đều quen thuộc, thậm chí rất gần gũi, nhưng không hề gây nhàm chán và chút cảm giác sáo mòn nào, bởi chúng được liên kết trong một hệ thống hình tượng thấm đẫm cảm xúc và sự trìu mến của nhà thơ với cuộc đời - điều này bộc lộ rõ qua những từ ngữ thơ gợi cảm chọn lọc: "bến đợi", "quen dừng", "biển tôi chờ", cùng bốn lần kêu gọi da diết "em hãy đến" ở cả bốn khổ thơ!
Tôi tin rằng, đây là bài thơ của một người đã sống qua nhiều năm tháng biến động, từng mệt mỏi, buồn đau, trải nhiều thất vọng lẫn hy vọng, và chắc chắn đã đạt tới sự "thuận thiên" của Trang Tử, thảnh thơi tự tại (Tiêu dao du - tên chương đầu của phần Nội thiên, sách Nam Hoa kinh). Đó không phải là lời kêu gọi thoát ly đời sống, hay đối kháng với nó - như văn học lãng mạn thế kỷ XIX, hoặc văn học siêu thực thế kỷ XX ở Châu Âu (và có ảnh hưởng khá sâu sắc đến văn chương Việt trước CM Tháng 8-1945). Đây chỉ là lời kêu gọi thầm thì, lời khuyên nhủ khẽ khàng: hãy tìm một sự tĩnh lặng tạm thời khi trở về thiên nhiên, để có thêm sức mạnh đi tiếp trên đường đời nóng bỏng... Nhân vật trữ tình "Em" có thể đại diện cho số đông độc giả đang cần tới những lời nhắn nhủ tựa sóng ngân nga, như gió thì thào kia!
Nhưng điều trước tiên, quan trọng hơn cả là: bản thân nhà thơ cũng là người đã đến với thiên nhiên không vụ lợi, sống hết lòng với thiên nhiên - như một cách tối ưu để tìm được những gì nguyên sơ, trong lành, không phải để lẩn tránh khổ não, chạy trốn bất hạnh. Bài thơ này có khả năng giúp người đọc chợt nhận thấy tận đáy lòng mình cái "cảm giác ngưỡng mộ", cao hơn thế, là "sự tôn kính những gì phát sinh từ cái đẹp vĩ đại" của thiên nhiên, nơi sẽ diễn ra quá trình tự chữa trị vết thương lòng kỳ diệu - như triết gia danh tiếng người Ấn Độ Krishnamurti từng nói tới: "Việc chữa trị ấy sẽ dần xảy tới nếu bạn sống với thiên nhiên." (Krishnamurti tinh yếu, Nguyễn Ước dịch. Nxb Văn học, 2002). Khi có được "sự tôn kính" ấy đối với Thiên nhiên, nhà thơ có đủ tư thế, sự tự tin và cả lòng dũng cảm nữa để có thể kêu gọi : "Em hãy đến" và sẵn lòng an ủi, sẵn lòng tiếp nhận sự trao gửi niềm tin cậy...
Nhưng điều trước tiên, quan trọng hơn cả là: bản thân nhà thơ cũng là người đã đến với thiên nhiên không vụ lợi, sống hết lòng với thiên nhiên - như một cách tối ưu để tìm được những gì nguyên sơ, trong lành, không phải để lẩn tránh khổ não, chạy trốn bất hạnh. Bài thơ này có khả năng giúp người đọc chợt nhận thấy tận đáy lòng mình cái "cảm giác ngưỡng mộ", cao hơn thế, là "sự tôn kính những gì phát sinh từ cái đẹp vĩ đại" của thiên nhiên, nơi sẽ diễn ra quá trình tự chữa trị vết thương lòng kỳ diệu - như triết gia danh tiếng người Ấn Độ Krishnamurti từng nói tới: "Việc chữa trị ấy sẽ dần xảy tới nếu bạn sống với thiên nhiên." (Krishnamurti tinh yếu, Nguyễn Ước dịch. Nxb Văn học, 2002). Khi có được "sự tôn kính" ấy đối với Thiên nhiên, nhà thơ có đủ tư thế, sự tự tin và cả lòng dũng cảm nữa để có thể kêu gọi : "Em hãy đến" và sẵn lòng an ủi, sẵn lòng tiếp nhận sự trao gửi niềm tin cậy...
Tôi bỗng chợt nghĩ: trong đời sống thi ca, nếu mọi người làm thơ đều mang tâm nguyện của thi sĩ Xuân Hoàng: "Em hãy đến tìm tôi nơi bến đợi", chắc sẽ bớt đi nhiều bài thơ & tập thơ vô thưởng vô phạt, thậm chí có thể "làm nghẽn mạch giao thông tinh thần"- như có người từng thốt lên báo động trong thời gian qua!
Hà Nội, cuối xuân 2014
(Đạo diễn Điện ảnh)
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 02/04/2014
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Mai Hồng Niên “bâng khuâng thức giữa câu Kiều” – Bài viết Mai An Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 02/04/2014
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Mai Hồng Niên “bâng khuâng thức giữa câu Kiều” – Bài viết Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Thứ ba - 01/04/2014 20:32
Vào dịp Hội Kiều học VN gặp gỡ hội viên cuối năm (2013), lần đầu tiên tôi mới được gặp nhà thơ Mai Hồng Niên. Biết tôi đang thực hiện loạt phim tài liệu "Truyện Kiều - Xưa và Nay", và cũng từng đọc thơ ông, lão thi sĩ trân trọng tặng tôi cuốn "Quê mình xứ Nghệ" mới tái bản (Nxb Hội nhà văn, 2014). Tôi liền giở hú họa ra đọc một trang, thì gặp ngay hai câu: Đi dọc phố Nguyễn Du một chiều Hà Nội Lại bâng khuâng thức giữa câu Kiều Tôi lại giở thêm một trang khác, thì đọc ...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh: Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
MAI HỒNG NIÊN "BÂNG KHUÂNG THỨC GIỮA CÂU KIỀU"
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh: Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
MAI HỒNG NIÊN "BÂNG KHUÂNG THỨC GIỮA CÂU KIỀU"
Vào dịp Hội Kiều học VN gặp gỡ hội viên cuối năm (2013), lần đầu tiên tôi mới được gặp nhà thơ Mai Hồng Niên. Biết tôi đang thực hiện loạt phim tài liệu "Truyện Kiều - Xưa và Nay", và cũng từng đọc thơ ông, lão thi sĩ trân trọng tặng tôi cuốn "Quê mình xứ Nghệ" mới tái bản (Nxb Hội nhà văn, 2014). Tôi liền giở hú họa ra đọc một trang, thì gặp ngay hai câu:
Đi dọc phố Nguyễn Du một chiều Hà Nội
Lại bâng khuâng thức giữa câu Kiều
Tôi lại giở thêm một trang khác, thì đọc được:
Anh cậy nhờ thơ để nói điều nhân thế
Và tựa vào em qua chớp bể mưa nguồn
Tựa vào bạn bè sống ít thiệt-hơn
Giữa thời thế chông chênh bão gió
...Đồng vọng với trang Kiều
Cụ Nguyễn gửi vào thơ
Giữa lúc đang "máu mê" tìm kiếm tất cả những gì liên quan đến Nguyễn Du và Truyện Kiều để đưa vào phim, tôi đã đọc ngốn ngấu cả tập thơ này. Và tôi chợt nhận ra một điều: Mai Hồng Niên có khả năng khiến những địa danh và những tên tuổi xứ Nghệ trở nên gần gũi, thương mến với tất cả mọi người. Đặc biệt là, thi hào họ Nguyễn Tiên Điền và Truyện Kiều- vốn đã ăn sâu vào tiềm thức nhiều thế hệ người Việt, đã trở thành nguồn cảm hứng lớn nhất, một thi liệu quan trọng bậc nhất của toàn bộ tập thơ "Quê mình xứ Nghệ". Ông thú nhận: "Đi khắp bốn phương, hồn quê là điểm tựa/ ...Đất quê còn mãi những trang Kiều" (Ngày ấy và bây giờ). Phải chăng, ông cả đời đã "Thấm đẫm lời hát ru của bà, của mẹ/ Bao nỗi thăng trầm qua mưa nguồn chớp bể (Tư chất ông Đồ...) nên mới ngày càng thấm thía "Nỗi niềm xưa với trang Kiều hôm nay" (Không chỉ lời ru). Và hình như ở bất cứ đâu, trong bất cứ cảnh ngộ nào, nhà thơ cũng "vẫn gặp Kiều/ Đọc trang thơ/ Phận mình! (Lại về với biển).
Không phải chỉ một buổi, nhà thơ đã ngắm nhìn quê hương trong tâm trạng: "Từ trên cát trắng đồi hoang/ Đất quê trộn nắng mưa chan bốn mùa/ ...Và trong cửa biển chiều hôm/ Câu thơ Cụ Nguyễn, nỗi buồn xa xa" (Mười năm). Buồn vui với nhân tình thế thái, nhà thơ nhiều đa đoan này không chỉ một lần thảng thốt: "Giữa hư thực cứ mải mê thương Kiều" (Về với nghi Xuân) - "Phận bạc đời Kiều "Trăm năm" còn đó/ Vầng trăng nghiêng ngả những con thuyền/ Hư thực không phân chia phải trái/ Đời người chỉ một bóng sao rơi" (Vẫn là từ biển và sông). Ngẫm về cuộc đời lênh đênh chìm nổi của thi hào họ Nguyễn Tiên Điền, ông rút ra triết lý sống thanh thản cho bản thân: "Đã qua thời "dạ, thưa" dấu bao điều lầm lỗi/ Để nhân dân chìm nổi giữa đói nghèo.../ Về làm dân ngả bóng cây ngô đồng/ Thập loại chúng sinh cụ Tiên Điền phiêu dạt.../ Mọi thắng thua đã trôi về biển rộng/ Lặng lẽ với con đò chở câu ví sang ngang (Quan và Dân ).
Cái sự kiện nhập tỉnh vội vã - sản phẩm duy ý chí một thời được nhà thơ cảm nhận bằng thân phận nàng Kiều: "Có quê hương, bỏ quê hương/ Mười lăm năm, cảnh đoạn trường là đây/ Khi đi trống giục cờ bay/ Ngày về phố vắng đường lầy cỏ hoang...Tự gây nên thác nên ghềnh cho nhau... Ngẫm câu Kiều giữa quê hương/ Bao người nhập hội bỏ phường lại đi/ Tưởng là chắp vá thành quê/ Ngờ đâu nửa mảnh trăng thề chia nhau/ Chỉ là cành mướp hoa cau/ Nguyễn Du ơi!/ Vẫn nỗi đau nhân tình" (Về qua Vinh)...
Khi "Con tàu Nguyễn Du lần đầu về quê nội", giữa những cánh bèo xô dạt trên vùng đất bạc màu trải qua bao chìm nổi, khóe mắt của nhà thơ chợt rớm lệ nhận ra "Thiên nhiên nép mình giữa bao điều lầm lỡ" (Tàu Nguyễn Du về bến Giang Đình). Dường như nguồn cảm hứng thi ca của Nguyễn Du trước cuộc đời sóng gió dâu bể đã cho MHN thêm sức mạnh để bộc bạch nỗi phẫn uất, sự bùi ngùi đau xót của ông đối với thời cuộc. Đó là "Những đám cưới ồn ào như chữa cháy", "Thằng bán tơ vẫn lên xe xuống tàu" (Vinh- ngày trở lại). Đó là cảnh "Người tất tưởi quẩn quanh đầu cổng chợ/ Người cúi mặt vái trời ngả nón xin ăn..." (Thành phố và em). Đó là những sự thật đau xót hiển hiện giữa đời thường mà MHN buộc ném ra những câu thơ thế sự sắc nhọn, rát bỏng, dù bản chất thơ ông dường chỉ ưa sự ngọt ngào: "Trăm năm trong cõi người ta/ Bất tài thất học mới là điều nguy/...Từ thằng xúc cát nhập phường quan tham/ Bán đất, bán biển, bán làng/ Dồn dân vô rú khai hoang kiếm lời" (Minh nhớp xưa và....)- "Học hành tính giá thấp cao/ Có tiền mang đến cửa nào cũng xong/ Nên chi rắn đẻ ra rồng/ Từ thằng lại hóa nên ông có quyền/ Trong tay sẵn có đồng tiền/ Thời nay, thưa cụ Tiên Điền chính danh" ( Con có cha và không cha)- "Lại gặp cụ ND- đi qua chợ Tiên Điền/ Nhiều thứ muốn mua nhưng đời cho toàn bạc giả/ Ba trăm lạng thời nay đắt quá" (Tình tang thế thái nhân tình)- "Thay đen đổi trắng đồng tiền/ Trăm năm thưa cụ Tiên Điền còn đây!" (Thời nay- Thị Hến)-"Nhớ thời bị gậy người ơi/ Dân quê giờ vẫn áo tơi lấm bùn (Nhớ thời bị gậy người ơi)-"Đám sai nha" lại tìm về nơi đây/...Con thưa với cụ bây giờ/ Hai trăm năm vẫn bơ vơ thân Kiều/... Đem tiền mua bán chữ yêu thôi mà" (Con thưa với Cụ Nguyễn Du)...
Nhiều người tìm thấy mình trong tâm trạng thi sĩ: "Chữ Tài mai mốt còn xanh/ Chữ Tâm/ Thưa Cụ/ Biết thành chữ chi" (Thăm Cụ chiều nay). Lắm lúc ông bi quan: "Tôi về ôm chiếc đò thơ của mình/ Chuyện đời nhân thế buồn tênh Biển và bờ giữa mông mênh/ Dấu xưa gửi chút lênh đênh bọt bèo/ Cánh buồm thơ vẫn buông neo/ Bên dòng lục bát/ Những chiều Nghi Xuân" (Không đề II)... MHN trong nhiều bài thơ đã giúp người đọc hình dung về chính bản thân ông cùng các đồng nghiệp thi sĩ: "Nghiệp văn chương đi mãi vẫn cứ nghèo" (Nhà thơ quê hương)-"Đau đớn thay gặp cảnh nghèo/ Bỏ quê tìm chốn bọt bèo tha phương" (Thăm Cụ chiều nay)-"Thương quê lấm láp hao gầy/ Lại thương mình giữa vơi đầy nhân gian (Mẹ và quê) v.v. Và ông đã nguyện đứng vào hàng ngũ của những con người "Mang Tâm - Tài với nước non" (Quê mình xứ Nghệ)- "Hết thời binh đao lấy trang văn làm bến đỗ/ Năm tháng bể dâu sấp ngửa với trang Kiều (Người cuối cùng còn lại của lòng dân) -"nhà thơ lang thang tìm chân lý/ Nhận biết thực hư gian trá của con người"- "Lấy khí tiết người xưa làm gương mặt hôm nay" (Thành phố và em).
Nhờ có "Vầng trăng cụ Nguyễn/ Nhập vào hồn quê" (Anh ở miền quê ấy), ông đã hiểu sứ mệnh vinh quang và cay đắng của người thi sĩ muôn thuở qua cuộc đời Nguyễn Du: "Trang thơ viết và tháng ngày người sống/ Cũng chênh vênh qua bao nỗi đoạn trường/ Mong chẳng được-dẫu một ngày tái hợp/ Để riêng mình nhận lấy cả tai ương" (Không đề I). Nhà thơ rung cảm sâu sắc trước cái Đạo Nhân Nghĩa của Dân tộc mà Nguyễn Du đã lấy làm cốt lõi cho chữ "Tâm", và dường ông đã thắp hương nguyền lấy chữ "Tâm" này làm cội nguồn Thơ của mình: "Thân gầy sấp ngửa đời văn/ Nỗi buồn nhân thế đến ngần ấy thôi /...Mặc đời ai nhớ ai quên/ Viết nghìn trang sách lâu bền nghĩa nhân" (Gửi bác Thái Kim Đỉnh)- "Truyện Kiều còn mãi trăm năm/ Kém tài sao sánh chữ "Tâm" hỡi người/ Chỉ là hạt cát nhỏ nhoi/ Mênh mông giữa bãi sa bồi đã quen/ Thăng trầm, vinh nhục sang hèn/ Lẽ đời là thế mới nên phận người" (Phải trở lại với mình). Ông tự nhủ mình: "Chữ Tâm/ Chẳng đến bất ngờ với ai (Chữ "Tâm" với bạn)-"Chữ Tâm chữ Tài Nguyễn Du còn để ngỏ/ Chí "làm trai" Nguyễn Công Trứ còn đây" (Lời mẹ tiếng quê)...
Hầu như trang thơ nào trong "Quê mình xứ Nghệ" cũng đều vang vọng âm hưởng của thơ Kiều, của đoạn trường nàng Kiều & Nguyễn Du, của nỗi đau nhân thế & thời cuộc mà thi hào họ Nguyễn Tiên Điền mang theo suốt mấy trăm năm nay... Tôi xin kết lại bài viết nhỏ này bằng vài câu chắc là tâm huyết nhất của MHN khi "bâng khuâng thức giữa câu Kiều"- như một lời nhắn nhủ với mọi người, nếu quả như "Thơ cần có ích" (Chế Lan Viên):
Giọng đò đưa, tiếng Nghệ mẹ sinh thành
Trang Kiều Nguyễn Du - chữ Tâm làm bến đợi
Còn chữ Tài cả một đời rong ruổi
Là Tình yêu- ngọn lửa trái tim mình
... Ngược Bắc xuôi Nam nhân nghĩa cứ vẹn toàn
(Người của đương thời)
Hà Nội, cuối năm 2013
(Đạo diễn Điện ảnh)
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 01/04/2014
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bóng con, bóng mẹ hay là chuyên trong một ngôi nhà không mái – Bài viết Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 01/04/2014
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bóng con, bóng mẹ hay là chuyên trong một ngôi nhà không mái – Bài viết Nguyễn Anh Tuấn
Thứ năm - 27/03/2014 08:57
Tôi từng được gặp nhà báo Dương Đức Quảng đôi ba lần tại Hãng phim K5- "sân chơi" của những nhà điện ảnh từng trải qua chiến trường Liên khu V. Tôi không phải là dân chiến trường cũ, còn dải đất liên khu V mới chỉ được đặt chân tới sau năm 1975, song vẫn được K5 film trân trọng mời hợp tác. Và thông qua những nhà điện ảnh của một chiến trường vào loại ác liệt nhất thời chống Mỹ đó, như Huỳnh Bá La Vuông, Ngô Tạo Kim, Tạ Thôi, Nguyễn Hữu Thanh, tôi kính trọng nhà báo Dương Đức Quảng một cách "kính nhi viễn chi". Tôi không hề biết ông có làm thơ, cho tới lúc, nhờ gặp bạn cũ Châu La Việt ở Hà Nội, tôi mới được gặp ông lần nữa, và được ông tặng tập thơ còn thơm mực in: "Đôi điều với con" ...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh: Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh: Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
BÓNG CON, BÓNG MẸ
Tôi từng được gặp nhà báo Dương Đức Quảng đôi ba lần tại Hãng phim K5- "sân chơi" của những nhà điện ảnh từng trải qua chiến trường Liên khu V. Tôi không phải là dân chiến trường cũ, còn dải đất liên khu V mới chỉ được đặt chân tới sau năm 1975, song vẫn được K5 film trân trọng mời hợp tác. Và thông qua những nhà điện ảnh của một chiến trường vào loại ác liệt nhất thời chống Mỹ đó, như Huỳnh Bá La Vuông, Ngô Tạo Kim, Tạ Thôi, Nguyễn Hữu Thanh, tôi kính trọng nhà báo Dương Đức Quảng một cách "kính nhi viễn chi". Tôi không hề biết ông có làm thơ, cho tới lúc, nhờ gặp bạn cũ Châu La Việt ở Hà Nội, tôi mới được gặp ông lần nữa, và được ông tặng tập thơ còn thơm mực in: "Đôi điều với con" (Nxb Hội nhà văn, tháng 12/ 2013). Thú thực là tôi không tin những quan chức (dù ở ngành báo chí và đã về hưu nhiều năm như ông) có thể làm thơ vượt khỏi loại thơ kỷ niệm, thơ thù tạc hiện đã được in ra quá nhiều... Nhưng rồi tôi đã phải nghĩ khác! Tôi đọc một mạch từ đầu, tới những dòng nhận xét của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều ở cuối cuốn sách mà tôi thấy tâm đắc: "Ông không hề có ý định đóng góp điều gì đó cho nền thi ca của chúng ta... Những câu thơ ấy đóng góp cho sự tồn giữ và phát triển nhân cách con người trong thế giới hiện đại". Tựa như một gợi ý chợt làm lóe lên một thôi thúc, tôi vội giở tìm lại bài thơ "Gửi Xuyên Hòa" và dừng rất lâu trước bài thơ lục bát giản dị:
GỬI XUYÊN HÒA
Vượt đường xong, đã nửa đêm
Gặp ngôi nhà nhỏ vào xin ngủ nhờ
Lại gần trong ánh trăng mờ
Ngôi nhà không mái đứng trơ giữa đồng
Xa xa pháo giặc ì ầm
Lẫn trong tiếng hỏi từ hầm vọng ra
Đúng rồi đây đất Xuyên Hòa
Êm êm tiếng mẹ như là tiếng ru:
"Khuya rồi con đã cơm chưa
Hồi hôm không phục sao giờ mới sang?
Vừa qua chúng nó lại càn
Nhà lại bị đốt chưa làm được, con!
Bốn bề vườn tược trống trơn
May mà còn được cái sườn nhà đây
Con về, gặp bữa không may
Nếu mưa, lấy tạm áo này mà che..."
Con nhìn bóng mẹ trong khuya
Lui cui nhóm lửa, đêm hè trăng ngân
Gió lay cánh võng tần ngần
Ngôi nhà không mái, trăng gần trăng xa
Con đi để lại Xuyên Hòa
Bóng con, bóng mẹ, ngôi nhà đêm nay
(Quảng Đà, 12/1971 Dương Đức Quảng)
Ở phần sau cuốn sách "Đôi điều với con", nhà thơ Ngô Thế Oanh đã đồng cảm "thật thấm thía với những gì DĐQ đã viết" trong bài thơ này, bởi ông một người cũng từng ở chiến trường Quảng Đà, từng tới đất Xuyên Hòa. Còn tôi thì lại thích thú với bài thơ bởi chợt như được xem một cuốn phim nhỏ độc đáo, hay chính xác hơn là một trường đoạn phim (séquant) đạt hiệu quả nội dung nghệ thuật cao, gây ấn tượng mạnh.
Cảnh mở đầu là toàn cảnh rộng lia theo vài người lính có vẻ mệt mỏi sau một chặng đường dài đang lặng lẽ đi trong đêm trăng, họ bước vào một thôn xóm, cây cối bị đạn bom phạt ngổn ngang, dọc đường làng là những ngôi nhà đổ sụp hoặc chỉ còn trơ khung mái tre in hằn vết đen trên nền trời, vẫn còn lom đom lửa cháy, có tấm rui đến lúc này mới rơi hẳn xuống kéo theo muôn tàn lửa bay...Điều này chứng tỏ thôn xóm vừa bị bị tàn sát, sau khi cuộc phục kích của địch bất thành. Nhưng phía trước chợt hiện lên một ngôi nhà nhỏ chơ vơ dường như vẫn còn nguyên vẹn. Họ vội vã bước về phía đó tìm chỗ nghỉ đêm...
Những cảnh tiếp theo: ở một toàn cảnh hẹp, theo mắt nhìn của một người lính trong đoàn là tác giả, ngôi nhà đã hiện rõ là một ngôi nhà không còn mái, tạo thành một "bầu trời vuông" (Thơ Nguyễn Duy). Từ xa, tiếng pháo giặc vẫn vọng tới, và ánh lửa phía đó thỉnh thoảng làm nổi bật thêm "cái sườn nhà" trơ trụi. Ở một cảnh trung sau đó, khi tác giả tới gần, có thể thấy rõ chất liệu tường rơm trát đất của "cái sườn nhà". Sau vài câu hỏi tưởng không còn hy vọng gì nữa của người lính vọng vào trong, lát sau, có "tiếng nói từ hầm vọng ra" lẫn "tiếng pháo giặc ì ầm"- tiếng nói của một người mẹ. Phản ứng của người lính lúc đó là mừng rỡ khôn tả, vì các anh vẫn nghĩ là đang lạc tới vùng đất chết sau trận càn. Câu thơ thốt lên "Đúng rồi đây đất Xuyên Hòa" cho thấy một tâm lý đặc biệt song thực dễ lý giải: giữa ngổn ngang sự chết chóc dường đã phá hủy cả hình dáng đất đai, sông ngòi, nhà cửa lẫn tên tuổi của địa danh, các anh lính trẻ chợt tìm lại được sự sống qua một tiếng người "đất Xuyên Hòa". Ta có thể hình dung một cận cảnh lia diễn tả những cặp mắt rưng rưng của mấy anh lính trẻ nhìn nhau, vừa ngạc nhiên vừa sung sướng đến nghẹn ngào khi gặp tiếng người trong khung cảnh đó, hơn nữa lại là "Êm êm tiếng mẹ như là tiếng ru"... Ở làng quê Việt nào cũng vậy, tiếng mẹ ru bao giờ cũng gợi lên sự mến thương, ấm áp đến nao lòng (Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày- Tố Hữu). Còn lời mẹ lúc này được off trên cảnh mái nhà trống trơn, sườn nhà cháy sém loang lổ mà ánh trăng dường làm nó càng trở nên kỳ dị, và trên cảnh những gương mặt mệt nhọc sạm mưa nắng nhưng đã được nụ cười rớm lệ làm sinh động hẳn lên. Những lời của người mẹ được diễn tả bằng thơ lục bát mộc mạc như lời nói thường ngày, có thể chuyển ngay thành thoại phim:"Khuya rồi, các con đã cơm chưa? Hồi hôm không có phục kích, vậy mà sao tận giờ mới sang? Vừa qua chúng nó lại càn dữ quá. Nhà lại bị đốt trụi mái, chưa kịp làm lại, con à!" Nói tới đây, trong một trung cảnh rộng máy theo, mẹ đã từ hầm trú ẩn bước hẳn ra ngoài nhà, chỉ tay xung quanh: "Vườn tược bốn bề đã trống trơn cả rồi, may còn được cái sườn nhà..." Mẹ một tay vẫy đón các anh vào trong cái sườn nhà trống, một tay cầm manh áo mưa: "Các con về, gặp bữa thực không may. Cứ ở tạm trỏng, nếu mưa thì lấy áo này mà che tạm... Mẹ đi thổi cơm nhá, chắc các con đói lắm rồi". Nói xong mẹ vội quay vào trước. Những lời mẹ nói có những thông tin tưởng đâu như chỉ là minh họa những gì mà các "cảnh phim" đã diễn tả, song thực ra, điều quan trọng không phải là mẹ nói những gì, ở đây, làm chúng ta xúc động sâu sắc chính là sự chăm sóc, che chở, quan tâm đầy tình yêu thương chân chất của người mẹ vùng tạm chiếm đối với những anh lính giải phóng mà mẹ coi như con, dù là người mẹ mới chỉ gặp một lần. Và điều này đã diễn ra thường xuyên, nội dung lời nói, nhất là cách nói mộc mạc, thân thiết, đượm lo âu của mẹ cho thấy rõ điều đó.
Tiếp theo, bằng một trung cảnh lia, ta thấy các anh lính đứng lặng nhìn theo. "Con nhìn bóng mẹ trong khuya/ Lui cui nhóm lửa, đêm hè trăng ngân". Cảnh bóng mẹ "lui cui" bên bếp lửa thổi cơm cho mấy anh lính khiến chúng ta chợt cay sè cánh mũi. Về chữ nghĩa, khó có thể thay thế được từ "lui cui" bằng từ nào khác để vừa diễn tả sự cô đơn vắng lặng trong ngôi nhà trống mái, vừa bộc lộ nỗi bùi ngùi, sự trìu mến thương cảm của tác giả-người lính trong cảnh ngộ đó. Và nó cũng có sức gợi rất trực cảm, cụ thể cho người làm phim về cách bố trí ánh sáng, góc máy quay, diễn xuất của diễn viên... Nếu là hình ảnh điện ảnh, cảnh mẹ "lui cui nhóm lửa" ấy chắc chắn mang một giá trị thẩm mỹ lớn, có sức tác động trực tiếp buộc người xem phải suy ngẫm và xúc động mãi về tấm lòng và sự hy sinh thầm lặng của mẹ.
Trong cái cảnh phim câm giữa mẹ và các con chỉ có tiếng nổ lép bép củi lửa kia, vầng trăng hè chứng kiến nỗi xúc động thầm lặng của những người lính và dường cũng ngân lên tiếng lòng con người, mà cảnh quay trăng không cần đến tiền cảnh lá dừa lúc đó (cây cối bị bom đạn phá hết còn đâu) cũng sẽ diễn tả được rất rõ tâm trạng của tác giả: "đêm hè trăng ngân..." Và với tâm trạng đó, tác giả nhìn cái gì cũng thấy chợt gần gũi, thân thương biết bao- kể cả khoảng trời nhỏ vốn trước đây là mái nhà: "Gió lay cánh võng tần ngần/ Ngôi nhà không mái, trăng gần trăng xa..."
Ở cuối trường đoạn phim này, ta thấy tác giả bỏ qua những cảnh sinh hoạt đêm đó, mẹ dọn cơm cho các con ra sao, nói với các con những gì, tác giả thao thức nhìn lên bầu trời hẹp thế nào... Những cảnh trên đã đủ để khắc họa nghĩa tình "quân dân cá nước" (khái niệm quen thuộc từ thời kháng chiến chống Pháp). Ta hình dung những người lính tạm biệt mẹ, rời xa ngôi nhà khi trăng sắp lặn, có một tiếng gà gáy sáng đơn độc. Ngôi nhà xa dần, bóng mẹ đứng tiễn và bóng những người con ra đi trải dài trên con đường lổn nhổn đất đá lẫn cành cây gãy, những rui mè cột gỗ cháy đen... Cái cảnh toàn rộng lia đó được quay từ một góc máy cao, trong tiếng nhạc nền trầm buồn cùng lời độc thoại nội tâm nghẹn ứ nước mắt của người lính-tác giả bộc lộ tình thương mẹ và sự thấm thía về lòng dân cao cả nơi vừa sống qua một "đêm nằm năm ở": "Con đi để lại Xuyên Hòa/ Bóng con, bóng mẹ, ngôi nhà đêm nay..." Không ai có thể quên nổi tâm tình đó trong một cảnh tượng như thế!
Bài thơ mặc nhiên gia nhập một cách xứng đáng vào kho tàng những tác phẩm văn học nghệ thuật thể hiện hình tượng người Mẹ Việt Nam; chỉ hơn hai chục câu lục bát mà có sức tác động tư tưởng tình cảm không kém, nếu không muốn nói là hơn- những tượng đài tốn kém hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng về Mẹ VN anh hùng! Và tôi tin những bài thơ như "Gửi Xuyên Hòa" có khả năng làm tan chảy sự vô tâm, vô cảm, sự lãng quên không cố ý của những người còn có lương tri đối với sự hy sinh lớn lao, thầm lặng của người Dân trong quá khứ đau thương, anh hùng...
Hà Nội, cuối năm 2013
(Đạo diễn Điện ảnh)
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 27/03/2014
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Nguyễn Trãi lại trở về cổ vũ con cháu của người – Bài viết Mai An Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 27/03/2014
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Nguyễn Trãi lại trở về cổ vũ con cháu của người – Bài viết Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Thứ hai - 17/02/2014 00:10
Nhà văn Lưu Trọng lư làm bài thơ này sau khi đã sống nhiều ngày cùng các chiến sĩ trận điạ "chốt" biên giới phía Bắc tại Lạng Sơn, Cao Bằng, "Khi trái tim ta đang vỡ làm đôi" khiến cho "Tiếng nói của cả đời ta ùn lại" như ông từng bộc lộ ở bài thơ "Em có nghe" viết cũng trong thời gian đó. Trước máu xương của quân dân ta đổ xuống chống trả sự "ma giáo côn đồ" của bọn bành trướng để bảo vệ từng tấc đất cha ông, nhà văn đã nhớ đến người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi; và bài thơ "Gửi Ức Trai" đã như một nén hương kính cẩn giữa đất trời Tổ quốc thiêng liêng ...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh: Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh: Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
NGUYỄN TRÃI LẠI TRỞ VỀ CỔ VŨ CON CHÁU CỦA NGƯỜI.
(Đọc "Gửi Ức Trai" của nhà văn Lưu Trọng Lư)
Đạo diễn- nhà báo Nguyễn Anh Tuấn
GỬI ỨC TRAI
(Thơ Lưu Trọng Lư)
Đạo diễn- nhà báo Nguyễn Anh Tuấn
GỬI ỨC TRAI
(Thơ Lưu Trọng Lư)
Người sợ đưa nhanh nhát chổi
Làm bóng hoa tan
Nhưng khi xô một tảng núi bạo tàn
Ức Trai! Người không biết sợ
Thà chịu một vừng trăng đổ vỡ
Để đổi lấy một mặt trời đại nghĩa giữa hành tinh.
Ai yêu như Người, cái lẽ hiếu sinh
Một giọt nắng thanh bình
Trên đầu ngọn lúa?
Ai yêu như Người, từng tia máu đỏ
Trong da tóc trẻ đẹp con người?
Người thơ của đội quân đất nước
Đã làm bơ phờ xơ xác
Những mũ mãng thiên triều!
Làm một nước nghĩa nhân nhỏ bé
Bên một nước lớn vô độ, tham tàn
Phải chịu điều cay đắng nghìn năm
Để đổi lấy hàng trăm trận thắng
Và Ức Trai với mái tóc thời gian còn thơm trắng mãi
Vẫn nắm chặt trong tay ấn tín Liễu Thăng
Dặn cháu con:
Với hùm beo phải vững giáo, chắc thương
Nhưng Nhân nghĩa ngọn cờ, đừng để lọt vào những bàn tay dính máu
Ôi! Ngọt ngào ngọn gió
Gần 600 năm rồi mà như mới hôm qua
Ức Trai về, lững thững dưới rừng hoa
Như xem lại, một chiều trận mạc…
(Trích trong tập Bài ca tự tình - NXB Hội Nhà văn, tháng 6-2011)
Nhà văn Lưu Trọng lư làm bài thơ này sau khi đã sống nhiều ngày cùng các chiến sĩ trận điạ "chốt" biên giới phía Bắc tại Lạng Sơn, Cao Bằng, "Khi trái tim ta đang vỡ làm đôi" khiến cho "Tiếng nói của cả đời ta ùn lại" như ông từng bộc lộ ở bài thơ "Em có nghe" viết cũng trong thời gian đó. Trước máu xương của quân dân ta đổ xuống chống trả sự "ma giáo côn đồ" của bọn bành trướng để bảo vệ từng tấc đất cha ông, nhà văn đã nhớ đến người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi; và bài thơ "Gửi Ức Trai" đã như một nén hương kính cẩn giữa đất trời Tổ quốc thiêng liêng dâng lên hương hồn biết bao anh hùng nghĩa sĩ Việt Nam xưa nay mà Nguyễn Trãi là tấm gương chói lọi nhất...
Bài thơ mở đầu bằng một ý thơ rất đẹp lấy trong Quốc âm thi tập: "Hé cửa đêm chờ hương quế lọt/ Quét sân ngày lệ (sợ) bóng hoa tan", liền sau đó là một hình ảnh tương phản giàu thẩm mỹ và nặng trĩu hiện thực để khái quát lên toàn bộ tâm hồn cao khiết lẫn khí phách phi thường của Nguyễn Trãi trong suốt cuộc đời cụ:
Người sợ đưa nhanh nhát chổi
Làm bóng hoa tan
Nhưng khi xô một tảng núi bạo tàn
Ức Trai! Người không biết sợ
Sức mạnh tinh thần của Nguyễn Trãi được bắt nguồn từ triết lý hành động của một dân tộc từng chịu quá nhiều đau khổ, khi "mỗi người Việt mình nước mắt đủ chảy thành sông", và nhà văn đã diễn đạt điều này tựa lời thề của người nghĩa quân trước giờ vung gươm ra trận diệt ngoại xâm, tựa đôi câu đối trang trọng thấm đẫm xúc cảm treo nơi bàn thờ Tổ tiên anh linh:
Thà chịu một vừng trăng đổ vỡ
Để đổi lấy một mặt trời đại nghĩa giữa hành tinh.
Từ điểm xuất phát này, nhà văn bắt đầu miêu tả thế giới tinh thần cao quý của Ức Trai, mà cội nguồn là tình yêu Dân, thương Dân:
Ai yêu như Người, cái lẽ hiếu sinh
Một giọt nắng thanh bình
Trên đầu ngọn lúa?
Ai yêu như Người, từng tia máu đỏ
Trong da tóc trẻ đẹp con người?
Cho dù phải chịu cảnh "Danh hư họa thực", nhưng nhờ có tình thương lớn lao đó, nhờ có "lòng trung lẫn hiếu/ mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen" (QÂTT) mà Nguyễn Trãi đã trở thành "Nhà chiến lược thiên tài/ Người mưu sĩ tuyệt vời" đưa dân tộc vượt qua bao hiểm nguy và đè bẹp giấc mộng của bọn bá quyền:
Người thơ của đội quân đất nước
Đã làm bơ phờ xơ xác
Những mũ mãng thiên triều!
Nguyễn Trãi còn "dành cả hơi nồng cho hậu thế", và nhà văn như nghe thấy nỗi lo âu trăn trở thể hiện tầm nhìn vượt nhiều thế kỷ của cụ đến với hôm nay:
Làm một nước nghĩa nhân nhỏ bé
Bên một nước lớn vô độ, tham tàn
Phải chịu điều cay đắng nghìn năm
Để đổi lấy hàng trăm trận thắng
Nhưng từ hơn ba mươi năm trước, giữa những ngày tháng Tổ quốc bị sỉ nhục đó, nhà văn đã thốt lên hộ biết bao người Việt Nam yêu nước-"Những ngọn đèn không ngủ" trong hiện tại cái điều phẫn uất này, qua cách nói dân dã: "Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng!" Vì thế, Đạo nghĩa làm người lớn nhất giờ đây là "Biết cầm chắc những gì Tổ quốc trao đưa":
Và Ức Trai với mái tóc thời gian còn thơm trắng mãi
Vẫn nắm chặt trong tay ấn tín Liễu Thăng
Dặn cháu con:
Với hùm beo phải vững giáo, chắc thương
Nhưng Nhân nghĩa ngọn cờ, đừng để lọt vào những bàn tay dính máu!
Gần mười năm sau cái ngày "Người lính thơ đi nhặt những mũ mãng thiên triều", nhà văn Lưu Trọng Lư vẫn chưa hết nỗi đau và sự trăn trở về hành động xấc xược của bọn "ma giáo côn đồ" bành trướng; cùng với nỗi lo lắng khôn nguôi về sự sa sút của đạo lý, của tinh thần dân tộc chân chính, ông viết "Thư đêm giao thừa" (năm 1988):
Mênh mông trường dạ” nhang đèn xưa cũng thổn thức đầy vơi
Cả lịch sử anh hùng cũng về đây trong chiến hào sinh tử
Của dân tộc, một câu thơ, một đạo lý
Cũng về đây, sống chết với hôm nay
...Việt Nam không chỉ chết sống một lần
Việt Nam muôn đời tự làm nên vận mạng
Hãy cuốn phăng đi trăm loài xác bẩn!
Nhà văn như đang nói trực tiếp với Nhân dân mà ông yêu thương quý trọng trọn đời và những người có trách nhiệm đối với vận mệnh Nhân dân giữa những ngày nóng bỏng này:
Hỡi quyền uy rộng lớn! Thái thượng Nhân dân
Ta chỉ xin quỳ trước một chữ Nhân
Cuộc Giao ban Đất Trời
Người không được phép thêm một lần lỡ hẹn!
Và Nguyễn Trãi lại về với chúng ta hôm nay, theo xúc cảm của một nhà văn sẵn sàng "Ôm cả tình thương mà chết", không chỉ để tiếp tục "Tìm mai theo đạp bóng trăng" (QÂTT) mà còn để xem xét cháu con "Với hùm beo phải vững giáo, chắc thương" ra sao trước sự tồn vong của Đất Nước:
Ôi! Ngọt ngào ngọn gió
Gần 600 năm rồi mà như mới hôm qua
Ức Trai về, lững thững dưới rừng hoa
Như xem lại, một chiều trận mạc…
Một dũng sĩ trong hình dáng của một tiên ông "lững thững dưới rừng hoa" thăm lại "vạn cổ thử giang san"- nơi mà chỗ nào cũng có dấu vết "Kình ngạc băm vằm non mấy khúc/ Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng" (thơ dịch Ức Trai Thi tập). Một tiên ông hiền dịu có tâm hồn "ngọt ngào như ngọn gió" mà lại quắc thước, cứng cỏi, chứ không hề ủy mị yếu hèn trước cả một hàng tướng giặc qua sự miêu tả gần đây của một nhà văn có tên tuổi...
Nhà văn Lưu Trọng Lư đã cảm nhận một cách sâu sắc và đồng cảm cao độ cái sức mạnh tinh thần lớn lao của Nguyễn Trãi qua văn chương chiến đấu và văn chương thế sự của cụ mà nhà thơ Pháp Paul Éluard từng gọi là: "những vũ khí của đau thương"... Đó cũng là nguyên nhân quan trọng để "Gửi Ức Trai" trở thành một trong những tác phẩm văn học hiện đại hay nhất viết về người anh hùng vĩ đại dân tộc - danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi, và luôn luôn mang tính thời sự nóng hổi... Vâng, Nguyễn Trãi đang "lững thững" trở về để cổ vũ con cháu biết yêu thương, quý trọng nhau hơn khi cùng cầm "ngọn cờ Nhân nghĩa ", không để chúng lọt vào "những bàn tay dính máu" và dơ bẩn - có như vậy mới bảo vệ được trọn vẹn non sông gấm vóc yêu quý...
Mai An Nguyễn Anh Tuấn (nhà văn, đạo diễn điện ảnh)
(Đã in Tạp chí Nhà văn, số 3-2013)
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 17/02/2014
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Nơi ấy là kinh thành cổ tích – Bài viết Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 17/02/2014
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Nơi ấy là kinh thành cổ tích – Bài viết Nguyễn Anh Tuấn
Chủ nhật - 15/12/2013 11:14
Trong một bài thơ, NNB hé lộ cho người đọc thơ biết lai lịch đời anh cùng xuất xứ những vần thơ đầu tiên của anh: “/ Nơi ấy các bà Tiên dạy tối biết khóc/ Các bà Tiên dạy tôi biết cười/... Nơi ấy là kinh thành cổ tích/ Nơi ấy là đời tôi…” Và trong tập "Thủng thẳng với thơ"(Nxb Văn học-2011), chúng ta đọc được những dòng sau của NNB: "Tôi là một nghiệp dư thơ. Một nghiệp dư say mê thơ điên cuồng, chép chép ghi ghi và chôn ghi ghi chép chép ấy vào mộ huyệt của im lặng, chỉ thỉnh thoảng, không cưỡng nổi điên khùng, nửa đêm thức giấc, ngửa mặt nhìn trời đọc thơ gửi mây, tặng gió." ...
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
NƠI ẤY LÀ KINH THÀNH CỔ TÍCH
NƠI ẤY LÀ KINH THÀNH CỔ TÍCH
Trong một bài thơ, NNB hé lộ cho người đọc thơ biết lai lịch đời anh cùng xuất xứ những vần thơ đầu tiên của anh: “/ Nơi ấy các bà Tiên dạy tối biết khóc/ Các bà Tiên dạy tôi biết cười/... Nơi ấy là kinh thành cổ tích/ Nơi ấy là đời tôi…”
Và trong tập "Thủng thẳng với thơ"(Nxb Văn học-2011), chúng ta đọc được những dòng sau của NNB: "Tôi là một nghiệp dư thơ. Một nghiệp dư say mê thơ điên cuồng, chép chép ghi ghi và chôn ghi ghi chép chép ấy vào mộ huyệt của im lặng, chỉ thỉnh thoảng, không cưỡng nổi điên khùng, nửa đêm thức giấc, ngửa mặt nhìn trời đọc thơ gửi mây, tặng gió."
Nhưng những dòng tự bạch bằng thơ đầy thi vị lẫn văn xuôi trần trụi trên chỉ giúp ta có thêm mối đồng cảm ban đầu khi đọc thơ NNB, chứ tuyệt nhiên không giúp ta dễ dàng mở được một cánh cửa để khả dĩ bước vào thế giới thơ anh! Là một người yêu thơ và đọc khá kỹ thơ NNB, hơn thế, còn là bạn vong niên của anh từ khi là một cậu sinh viên văn khoa năm nhất từng bị "thôi miên" bởi hàng chồng thơ chép tay cao vật vưỡng của đôi vợ chồng thi sĩ nổi danh Nguyễn Nguyên Bảy & Lý Phương Liên, tôi xin cố gắng thử mở một trong những cánh cửa Thơ đó.
1. Ta có cảm tưởng, thơ NNB giống như một cuốn kinh đồ sộ tập hợp biết bao suy tưởng cảm nhận của người thơ về đời sống, về cội nguồn của đời sống và của thi ca... Song cuốn kinh ấy lại tựa ma trận của lòng người mà bản thân người làm thơ cũng phải thấy ngợp, đôi lúc có cảm giác chết chìm, có điều đã luôn phải vùng quẫy để thoát ra khỏi cơn lũ ngôn từ và ấn tượng để quan sát, để chiêm nghiệm; và trong khi quan sát chiêm nghiệm đời sống thì quan sát chiêm nghiệm ngay chính những ấn tượng, những kinh nghiệm sống cùng quan niệm xử thế của mình, để rồi từ đó, "Thơ đã ra đời như những liều thuốc giải độc trí tuệ, vì nếu thơ không được sinh ra hẳn tôi đã mắc chứng điên và bị buộc phải vào nhà thương Thường Tín"- như chính tác giả tự bạch. Như vậy đối với NNB, làm thơ chính là một cách ứng xử chủ yếu với đời, một cách bảo vệ phẩm giá đặc biệt, một vũ khí hữu hiệu chống lại sự đểu giả, là một lý do và một phương thức chính để tồn tại...
NNB khiêm nhường tự nhận là "người thơ nghiệp dư", nhưng thực ra đó là một tác giả rất có ý thức về sự nghiệp thơ ca của mình, và rất chuyên nghiệp. Có điều, anh đã chọn cho mình con đường thực chông gai.
Trong những năm tháng mà âm thanh cao vút của những bài hát, chất sử thi - giao hưởng hùng tráng của những "Sư đoàn", "Đường tới thành phố", "Tình yêu và Báo động", "Lửa đèn", "Mặt đường khát vọng", "Mặt trời trong lòng đất"(1)... là âm hưởng chủ đạo cho tinh thần xã hội (và đặc biệt cần thiết), thì cái bè trầm "âm âm lời Chinh Phụ lời Kiều" của thơ NNB chắc chắn không thể được coi trọng nếu không muốn nói là bị hắt hủi, bị truy bức ra khỏi đời sống cộng đồng! Lại còn "Tình yêu mượn cánh thánh thần chở che" nữa, rõ là "ngạo mạn" và "xấc xược"! Mặc dù anh tự nhận đứng trong hàng ngũ: "Chúng tôi đang viết những tráng ca/ Những tráng ca bằng gươm bằng súng"- nhưng riêng anh thì lại không viết tráng ca mà lại viết: "Thơ run rẩy những lời có cánh/ Khúc yêu mình trộn khúc thương con"- "Lời ru không vui không buồn/ Thơ hạ cánh đậu nghe lạnh ngắt" khi bếp lạnh và "bụng trống không", khi "Khúc yêu trong màn khóc mớ/ Khúc yêu lạc giọng ru con" (Tam tấu).
Giữa những ngày sắt thép máu lửa đó, anh lại dám "Mơ sen": "Bỗng cò nghiêng cánh/ Gánh tôi về/ Thuyền sen", và dũng cảm "Ngẫm về thơ" theo cách chẳng thời thượng chút nào: "Thuyền thơ chở đầy trăng thơ/ Đầy trà đầy rượu đầy hoa/ Và đầy nhân tình". Chiến tranh không cướp đi của người thơ nguồn cảm hứng vô tận về "Mùa yêu": "Âm dương tình ngỡ trong mơ/ Mùa yêu chẳng có bến bờ thời gian". Trong "Mùa yêu" đó, dường như anh cố gạt đi những âm thanh chát chúa để lắng nghe rõ hơn bao giờ hết "Dân ca buồn con sáo sang sông" hay "Rêu cổ tích rù rì kể chuyện" và ngẩn ngơ trước số phận do các bà Tiên xếp đặt: "Phải định mệnh nhân duyên/ Bỏ bùa anh lạc lối/ Ai rủ chân sen tới/ Cửa rừng nơi hẹn hò?".
Trong khi những lứa đôi chia tay nhau để ra trận, người thơ lại "Hát tặng biệt ly": "Nghe sông chảy lững lờ đôi buồm trắng/ Nghe phố xá nằm dài trong mật nắng/ Nghe nôn nao cánh bướm đậu hoa vàng".
Cái thời cần kêu gọi lòng căm thù và ý chí chiến đấu thì anh lại đưa ra những lời đạo lý cổ xưa của ông cha tưởng chừng lạc lõng: "Này cò này vạc này nông/ Không sống tử tế đừng mong thành người" (Ký ức ca dao).
Một "Vườn chiều có thực" của thời chiến tranh có khói hun muỗi từ giẻ mà anh lại hình dung như một vùng đất cát mềm của Tiên Dung - Chử Đồng tử, của Giếng ngọc Cổ Loa, có tiếng hát Trương Chi, ở đó "Tôi đang độc ẩm cuồng say/ Những ly rượu thơ cồn cào bụng đói/ Bao nhiêu người đang đói/Có thơ uống như tôi đâu/ Sao em lại cúi đầu/ Thương tôi mắt khóc?" (Vườn chiều).
Trong những năm đáng lẽ chỉ được hát ca, anh đã ngậm ngùi kể về người mẹ vẫn "Thương thằng mộng mị thơ ca/ Chọn yêu cuộc tình kiếp nạn", và về người vợ "Chít trắng đầu tang/ Nuôi đàn em thay mẹ/Mom sông cô gái nhỏ/ Tay cò mắt vạc kiếm ăn" (Thuyền tình).
Những điều "xa lạ" và "lạc lõng" nói trên- xét cho cùng là vô hại, thậm chí chúng cần thiết giúp cho con người giữ được cái gốc nhân bản trước những thảm cảnh khốc liệt, song đã vô tình góp phần tuyên một cái án "không có án" để gia đình thi sĩ phải ôm hận "ly hương" suốt mấy chục năm trời sau đó!
Thực ra, trong những năm tháng đạn bom ấy, người thơ có phần lập dị này cũng sống như tất cả cư dân Hà Nội. Anh đã sững sờ trước "những kỳ ngộ đẹp như thơ/ Tình mình làm sao sánh được/ Ấy là lẽ vì sao em không khóc/ Trước gian nan tem gạo phiếu tiền". Anh đã khóc như tất cả những người dân lúc đó trước câu chuyện về người bác sĩ trẻ chết bởi bom Mỹ trong ngày cưới, đã xúc động run người trước hành động bất chấp hiểm nguy của những con người lao động bình dị: "Cô bác sĩ Cửa Đông nuốt khóc/ Thiệp hoa phủ xác nửa mình/ Anh thợ điện người Ô quan Chưởng/ Bới nhặt nửa mình trong đổ nát Khâm Thiên..." (Ca trù mùa thu). Anh cũng trở về cơ quan để "thay ca trực chiến" như mọi phóng viên khác của Đài tiếng nói VN, cũng "đồng loạt cánh tay giơ" để "lên Tháp Bút viết hùng ca"... Nhưng, cái "tạng" của anh không phải là "hùng ca"; và điều đáng quý là, người thơ hiểu rõ hạn chế của mình, anh đã không ít lần tự dày vò: "Mặt trận cờ reo quân reo/ Trào lửa mà đành nuốt khóc/ Đứng tựa lưng trăng/ Bút thay gươm súng/ Chuốt câu thề" (Tự họa tuổi trai).
Người thơ có khát vọng lý giải sức mạnh chiến thắng của hiện tại bằng mạch nguồn từ xa xưa, nên cũng dễ hiểu anh thường để "Hồn quanh quất nơi cửa rừng nguyên thủy" (Về cội). Với trí tưởng tượng phong phú tràn ngập cảm hứng lịch sử, NNB hình dung: "Trăng nhớ những đêm Lạc Việt/ Gươm kiếm mài ngời trăng lu" (Chứng tích chiến tranh). Anh say sưa với "dòng sông chảy qua làng Việt cổ", với những nơi nào từng có "Sá cầy lật mở binh thư/ Người cấy lửa vào lúa/ Người chép lửa vào thơ" (Huyệt lửa). Anh là nhà thơ đầu tiên của thời mới tìm thấy sự đồng cảm lạ lùng với Thánh thơ Cao Bá Quát và có cả một tráng ca về cụ: "Đời Quát có hai vua/ Thơ Quát chỉ có quyền chọn một"- và Cao Bá Quát đã chọn "một ông vua là con dân mẹ nước"; thế nhưng "Đói khát vẫn hoàn đói khát/ Xã tắc khốc hư/ Ngậm miệng vái xin trời Phật", và anh nguyện sống với "Thác đoàn quân Cao Bá Quát/ Vào tử tìm sinh." (Thánh Thơ).
Từ cảm hứng lịch sử, NNB nhìn lại cuộc chiến tranh hiện tại và có cách cảm nghĩ riêng. Trong bài "Quả Mặt trời", trước tội ác hủy diệt của giặc Mỹ, anh băn khoăn: "Chảy đi đâu hỡi máu"- "Máu đã chảy lên thành Quả Mặt trời"- nhưng ấn tượng hơn cả vẫn là "Giấc mơ thơ nát bấy như bùn" và "Tọa tòa sen Phật bà khóc" (Chùa Một cột).
NNB muốn "Tượng hình làng quê sông núi" theo cách riêng của anh: "Tinh tú tôi ơi, sao thốt lời buồn/ Lập nghiệp gì đâu đời thi sĩ/... / Em gái quê cần lời thay nước mắt/ Ủ vào khăn tặng bạn trước chia ly/ Và với tôi điệu vần ấy đôi khi/ Cứu tuyệt vọng xô đời xuống vực" (Tinh túy ngộ duyên). Nhà thơ biết phận mình: "Đời cha nghèo xác/ Chỉ những bài ru là giàu có hơn người" (Ru con).
Mặc dù NNB không chỉ một lần tôn vinh: "Nụ cười là đặc sản của dân tộc tôi" (Đề dưới nụ cười), song ở thơ anh phần lắng đọng rung cảm nhất lại là "giọt khóc rơi xuống thì thầm" của người phụ nữ (Cầu thương). Bởi chính người thơ tuyên bố: "Mà tôi/ nghĩ lạ lùng chưa/ Học khóc/ Bởi sợ đời dư hát cười" (Học khóc). Nhà thơ không chỉ nhìn thấy những quả bom rơi xuống đe dọa cuộc sống bình yên, mà còn nhìn thấy cả chặng đường lam lũ đói khổ của các làng quê Việt từ ngàn xưa và chưa biết đến bao giờ chấm dứt: "Sông cái chia nhánh còng số tám/ Nước khóa làng tôi"- "Thương đất trắng chìm trong lũ" (Làng nước)- "Những câu ru nhang cháy/ Dưới trời bâng khuâng hương" (Lời ru dưới mỗi mái nhà). Nhà thơ tự nhận: "Anh có lỗi đã thăng hoa bi kịch". Nhưng anh không thể làm khác, bởi một lẽ giản đơn: "Anh hằng kể con nghe kiếp sống ông bà/ Trải bao nhiêu cực khổ/ Vẫn trước sau làm người tử tế/ Ngẩng đầu đi khắp thế gian". Điều khiến anh băn khoăn giữa lúc phải trốn chạy cái chết từ trên trời rơi xuống cũng là: "Con anh sao chẳng nên người/ Cháu anh sao chẳng nên người/ Không nên người/ Thì sao còn sông Cái sông Con/ Sao còn tiếng hát Mỵ nương/ Chèo đò lên non Tản/ Bỗng cháu nội hươ hươ thức sảng/ Hỏi sao ông khóc ông ơi?"
Xu thế thời đại là phải vươn tới đỉnh cao, phải "ra ngõ gặp anh hùng", vậy mà anh dám chỉ nhận mình là "tre nứa": "Thông tùng cao ngạo phong ba/ Chẳng lẽ tre nứa không là đời cây?/ Mặc ai chò chỉ lim mây/ Ta vẫn kiêu hãnh một cây giang thường". Thái độ nhún nhường đó chắc cũng gây ra không ít sự soi mói, nghi kỵ.
Trực giác và kinh nghiệm sống giúp nhà thơ nhìn thấy giữa thời "hùng ca" đó đã manh nha những vấn đề đáng quan ngại đối với đạo lý truyền thống - đó là chủ nghĩa xu thời, chủ nghĩa thực dụng, thói ích kỷ xuất hiện, cùng những thứ không thể tồn tại bên cạnh sự "tử tế"; nhiều lần anh đã phải thốt lên cay đắng: "Quanh ta hỏi có bao người/ Gian manh mà vẫn sống đời tụng ca" (Bài ru trằn trọc).
Những khi chán nản,"Giữa Âm Dương mông lung", buộc phải "Hát rong tôi trộn kinh hoàng vào đêm", nhà thơ chỉ biết "Tôi tụng tôi/ Nhân quả" (Cửu tụng). Thất vọng bởi những lời hứa hẹn xuông, những diễn văn lắm lời với những viễn cảnh to tát chỉ có ở thiên đường, anh "thắp nén nhang thơ" (Chép thơ công nghiệp đất) và khao khát "Ra với biển đi tất cả những ai/ Hoang tưởng như tôi biển mời ra biển" (Biển mời), hay cư xử một cách khá nghênh ngang làm tức mắt chẳng ít người: "Tôi bay trên bể đời giông tố hát nghêu ngao". Anh tìm đến Thiên nhiên như cội nguồn sinh lực và lòng tin yêu cho mình: "Tâm hồn anh bay lượn giữa thiên nhiên/ nghe ríu rít tiếng thơ trong lá cỏ"- "Công danh thế là quá đủ/ Phận mình thuyền thúng qua sông"... Tất cả cốt chỉ để mong vượt qua những nghiệt ngã của đời mà anh kể lại trong "Tự thuật sinh tồn". Thế nhưng anh đã vô tình "Phạm luật người quan họ" và phải trả giá: "Khốn khổ thân tôi đa tình/ Phạm luật người quan họ/ Cõng một cánh bèo giạt trôi" (Quan họ không ngoại tình).
Và gần suốt đời nhà thơ phải "hơ hoảng" khi đã quá dại dột, dám liều mạng làm một chuyện tày đình vào những năm 70 thế kỷ trước khi tuyên bố thẳng thừng: "Thơ là Thơ. Thơ không phải là địa vị xã hội của người làm thơ", và "phạm tội trẻ con" là "Luận Kiều thời chinh chiến..." (Tự thuật tội lỗi).
Không hiểu sao, tôi chợt liên tưởng người thơ có phần "kỳ dị" này với nhân vật bác sĩ - nhà thơ Zhivago của nhà văn Nga Boris Pasternak. Trong biết bao sóng gió kinh hoàng của số phận, cắn răng chịu đựng những tàn bạo phi lý của chiến tranh, Zhivago vẫn băn khoăn trăn trở với sự nghiệp văn chương của mình; anh đã viết bản trường ca "Xao xuyến" với ý tưởng sáng tác như sau: "Bao lâu nay chàng vẫn muốn miêu tả cái cảnh trong ba ngày một cơn bão đất đen tối, lúc nhúc dòi bọ, bao vây và tấn công ra sao cái hiện thân bất diệt của tình yêu, ném đất đá rào rào vào nó, vào cái hiện thân ấy, hệt như những lớp sóng biển dồn dập đập vào bờ và chôn vùi bãi biển..." (Bác sĩ Zhivago - Lê Khánh Trường dịch)
2. Trong khi "tìm cho mình một con đường khác, lầm lũi riêng mình, lầm lũi yêu thơ", NNB hầu như không bao giờ hoàn toàn hòa nhập vào cảnh ngộ, mà anh thường có góc riêng kín đáo nhìn đời, nhìn chính thân thế và tâm trạng của mình để phát hiện ra các thi tứ và "tụng" thành thơ sau khi đã âm thầm vượt qua bao nỗi buồn đau cay đắng. Sau khi đã tạm thời "hóa thân" vào nàng Kiều, vào Từ Thức, vào các bà Tiên, vào Sông Cái, vào Thánh Thơ... nhà thơ dần lùi xa khỏi những nhân vật tưởng tượng để bắt đầu miêu tả, dựng lên thế giới tinh thần của họ - bằng cách đó mở rộng đến gần như là vô hạn biên độ của xúc cảm và tư duy nhận thức. Sau khi đã "khách quan hóa" nhân vật trong tưởng tượng, NNB làm công việc khảo sát, đánh giá về thân phận, phẩm cách... của nhân vật đó và đồng thời cũng tự bộc lộ thân phận cùng phẩm cách của chính người thơ. Thường là, từ một nguyên cớ, một biểu tượng giàu sức thuyết phục hay đã từng quen thuộc trong đời sống lịch sử - văn hóa dân tộc, sau khi đã làm giàu có thêm cho biểu tượng bằng nội lực văn hóa thẳm sâu và thăng hoa nó bằng xúc cảm thơ tràn trề, anh quay trở lại đào sâu mãi vào chính nội tâm đang ngổn ngang (thậm chí có thể còn đang hoang mang nữa) của mình như đã tìm được chỗ dựa, đã tìm được vỉa mạch, và chính tại những chỗ này, khi "Anh bật khóc thành tiếng/ Nước mắt tràn đê", thơ anh thường lóe sáng một cách thực bất ngờ, khiến người đọc rung động ngây ngất... NNB thường đem cả trải nghiệm đời mình làm chỗ dựa, làm sự tham chiếu cho từng câu thơ một! Và phải chăng điều này cũng đã góp phần quan trọng khiến thơ NNB trở nên vô cùng phong phú- phong phú đến rậm rịt làm người đọc như lạc vào mê hồn trận của chữ nghĩa phập phồng cảm xúc của tác giả nhưng vẫn được tác giả kéo riêng ra một chỗ để suy ngẫm về nhân tình thế thái. (Tiêu biểu như các bài: Từ Thức bơ vơ, Sông cái mỉm cười, Ô cửa vuông trăng, Âm dương, Gia phả, v.v.)
Nhưng ngay cả khi viết về (hay viết cho) một đối tượng gần gũi thân yêu nhất, NNB cũng xử dụng biện pháp tạm gọi là "phân thân" này. Trong bài "Hai ngôi sao không lặn bao giờ", đoạn đầu nhà thơ bày tỏ tình cảm trực tiếp với vợ: "Anh không nhận ra em/ Một năm có là bao xa cách/ Em ủ đầu anh vào ngực/ Anh không thể nào hỏi được/ Sao tiều tụy thế mình ơi?" Nhưng ngay liền đó, nhà thơ tách ra khỏi quan hệ trực tiếp để quan sát người vợ kỹ càng hơn, thông qua biểu tượng là đôi mắt, và đồng thời quan sát miêu tả chính nỗi xúc động của mình- hơn thế, để khái quát về thân phận của người phụ nữ trên "đường đời nhiều cạm bẫy": "Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt chậm chạp u buồn/ Một nốt ruồi đẫm lệ/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt vẫn như ngày nào/ Đôi mắt ngày nào tôi nói yêu em/ Đôi mắt khép nhận lời/ Chỉ còn đôi mắt của vợ tôi/ Toàn thân em như cây thị rũ lá/ Khô cành trước gió ban mai/ Chỉ còn đôi mắt/Đôi mắt kể tôi nghe/ Lưng ngày nắng quật/ Đêm ngồi bỏng vú nuôi con/ Vai gánh nỗi thương chồng/Đi xa đường đời nhiều cạm bẫy/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt đổ xiêu." Tới đoạn 3, đoạn sau cùng, nhà thơ lại trở về vị trí trong đoạn thơ đầu, trực tiếp tâm tình với vợ; nhưng ở đây, đôi mắt đã được tách ra thành đối tượng thẩm mỹ riêng biệt đối với cả hai người, và đó chính là một sự "phân thân" cấp số nhân khiến cảm xúc được dồn nén nghẹn ngào suốt từ đầu bài thơ đến cuối cùng chợt vỡ òa: "Anh ôm đôi mắt ấy/ Bỗng òa đôi mắt khóc/ Tình rụa ràn mặt anh/ Đôi mắt u hoài trong vắt/ Đôi mắt ấy chính là hai ngôi sao trên trời/ Đêm đêm nhìn anh/ Thức với anh/ Đi cùng anh/ Hai ngôi sao không lặn bao giờ." Thương cảm nhưng không chìm ngập trong nó mà để đúc rút ra được biểu tượng của Cái Đẹp và Tình Thương! Đây có thể nói là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu cho phong cách NNB (tạm gọi thế); và nếu tôi có trách nhiệm trong Ban tu thư soạn SGK, tôi sẽ lập tức đưa bài này vào chương trình văn phổ thông trung học!
Nhìn chung, ở thơ NNB, các yếu tố tự sự (narrative) và trữ tình (lyric) hòa quyện khó phân biệt- trong tự sự đã thổn thức trữ tình và khi trữ tình lại đậm đặc tự sự- đó là một thứ tự sự giống thể văn kệ của văn học Phật giáo song lại giàu trực cảm. Sự trang trải thi hứng đến ào ạt không ngăn cản NNB thường cô đúc câu của thơ mình vào một hình thức ngắn gọn, mộc mạc như lời nói thường ngày song có sức nặng triết lý như châm ngôn, tục ngữ và gửi gắm được suy tư thâm trầm của một "thầy phù thủy" chữ nghĩa ".../Có đường bởi có bước chân/ Có ngã ba bởi đời cần tìm nhau" - "Em đã trả lại anh cho đời/Đã trả lại dòng thơ thủ thỉ cho yêu/Cái chết bỗng trở thành hèn nhát" - v.v.
Ngay từ những bài thơ đầu tiên của mình, NNB dường như đã có xu hướng huyền thoại hóa những hình ảnh, những chi tiết thơ, những quan sát cùng nhiều thi liệu khác đã trở nên quen thuộc thậm chí mòn sáo nhưng khi nhìn qua "Gằm gằm nỗi gì sau đít chai" cộng với một tình thương trĩu nặng thường trực thì "ngựa lá đa sẽ hóa ngựa thần"... Xu hướng tinh thần và dần biến thành quan niệm sáng tác vững bền này khiến người thơ thỏa sức chìm trong "Ký ức ca dao", trong "lung linh cổ tích đêm mơ" và biết bao biểu tượng của văn hóa Dân Tộc gần gũi với mỗi người dân Việt từ thở ấu thơ cho đến khi từ giã cõi đời- dù ở bất cứ nơi nào trên trái đất. Thơ NNB, từ thời xa lắm cho tới gần đây nhất, hầu như chỗ nào cũng ướt lệ và thầm thì âm hưởng những lời ru nao lòng "rợp từng đàn cò trắng" hay "âm âm lời Chinh phụ lời Kiều"... Nhà thơ đi trên "một con thuyền Trương Chi" suốt từ thời tráng niên cho tới ngày lên lão mà chưa hề thấy mệt mỏi, chán nản, ngược lại dường như càng đắm say thêm những gì được thấy được nghe trên con thuyền ấy- kể cả tiếng hát cô đơn xa xót của chính mình... Nếu bình tĩnh đọc và nghiền ngẫm dễ nhận thấy: mọi tâm tư, mọi nhận xét, mọi kiến thức, mọi thi hứng... của NNB dường như được liên kết lại trong/ và nhờ một trường cảm xúc - liên tưởng khá đặc biệt mà từ đó, tác giả phiêu du vào cõi Mộng; và cái cõi Mộng này (nhiều lúc kèm theo Ảo) thực ra cũng chỉ là hồi quang của ấn tượng lịch sử, của kinh nghiệm trường đời từng được lặn sâu trong mạch đời sống tâm hồn Dân Tộc. Đó là sợi tơ lòng thầm kín nhất, nhạy cảm nhất, và có thể nói là đắm đuối nhất kể từ những năm tháng người thơ được "bú mớm" bởi tình thương của các bà Tiên trong "Kinh thành cổ tích", để lúc nào cũng sẵn sàng ngân lên thành lời ân nghĩa, thành "Thơ Dâng" (Tên một tập thơ nổi tiếng của thi hào Ấn Độ R.Tagore). NNB bơi lội hít thở trong cái "trường" văn hóa Dân Tộc đậm đà tình nhân ái của ông cha từ thở thơ ấu, từ buổi "lần đầu tiên thấy lòng tôi chiêng trống", mà đối với anh dù đi suốt cuộc đời "vẫn là mới sáng hôm qua"... Nhưng không phải nhà thơ vay mượn những hình ảnh, những biểu tượng và sự thụ cảm dân gian ấy, mà chúng thực sự là máu thịt của anh, nảy sinh từ trong huyết quản và từ tận tế vi tiềm thức, chúng được chứng thực bằng nỗi đau riêng và nỗi đau chung của anh! Lắng nghe một cách chăm chú chật vật, giao tiếp một cách đau đớn, đối thoại một cách vật vã, để rồi sau đó nhà thơ chỉ làm cái việc là vội vàng run rẩy ghi lại một cách chân thật những gì mà tiềm thức nói, những gì mà chàng Từ Thức tâm sự, những gì mà Thánh Thơ Cao Bá Quát dạy bảo, những gì mà nàng Kiều thổn thức, những gì mà bà Tiên phán truyền, những gì mà người cha trăng trối... Sự thống nhất khá bền vững của hệ thống thi liệu và cách thụ cảm dẫn tới nghệ thuật biểu hiện rất nhạy cảm với nỗi khổ đau này, theo tôi là một nét đặc sắc riêng biệt khó trộn lẫn với bất kỳ ai của thơ NNB, lý giải phần nào sức cuốn hút gần như huyền bí của thơ anh. Và chính cái trường cảm xúc - liên tưởng nói trên cũng góp phần quan trọng tạo nên một người thơ NNB không giống ai, nó tựa một thứ "tâm trạng mỹ học đặc biệt" được nhiều nhà nghiên cứu văn học & nghệ thuật đã nói đến, tiêu biểu là của tác giả E. Weber: "Tảng đá tư tưởng rơi vào tâm trạng này và làm dấy lên những đợt sóng tinh thần, những đợt sóng này vươn tới sự biểu hiện bằng ngôn ngữ và sẽ phải trở thành Thơ."(2)
Mấy chục năm trước trong ghi chép "Thủng thẳng với Thơ", NNB đã tâm sự: "Tôi lắng nghe nhịp đập trái tim mình từ mọi phía khác nhau của cuộc đời, sự chỉ huy không phải là bộ óc, mà là trái tim, cho nên những phấn khích nội dung nơi trái tim liền tức khắc thành thơ, những vần thơ ấy nhiều khi mâu thuẫn với chính tư duy của mình". Cũng nhờ sự mâu thuẫn đó, cũng giống như trong nghề làm gốm, một bình gốm bị "hỏa biến" tức là không làm chủ được nhiệt độ thì sản phẩm bị hỏng, nhưng cũng có lúc lại tạo ra sản phẩm kỳ lạ độc nhất vô nhị, tác phẩm thơ đôi lúc thăng hoa không ngờ. Trong thơ NNB, ta gặp không ít trường hợp như vậy. Trong bài gần đây nhất "Hello" ta có thể nhận ra: tất cả những màu sắc rực rỡ hay xám xịt, những tiếng khóc tiếng cười, những chuyện vui - buồn, cũ - mới trong cuộc đời này, từ nước Việt xa xôi đến những bang của nước Mỹ… đều có thể ném vào hai câu thơ sau đây như một cái “thùng không đáy”, đầu bài: “Chỉ thấy chữ múa chữ hát chữ hôn chữ làm tình chữ gục đầu chữ khóc”, và cuối bài: “Người viết những dòng nhật ký này hello cùng tiếng nức nở trong lòng”. Tới lúc đó, hình như người đọc cũng vô tình phải làm thơ theo anh, cũng muốn "hello" với một giọt lệ cay trong đáy mắt…
Tuy vậy, trong lúc say sưa "Chuyền tay chữ hát xuống thuyền", thơ NNB không phải bài nào cũng "đắc ý" làm thỏa mãn người đọc. Những kiến thức dày đặc về triết học Á Đông, về sử học, nhân học, văn học dân gian... được thể hiện trong thơ NNB không phải lúc nào cũng được xử dụng đúng chỗ, đắt giá, thậm chí đôi khi chúng làm thơ anh nặng và rườm. Nhưng dù thế, chúng cũng đều kịp thủ một "sứ mệnh" nào đó trong kho "Lưu trữ yêu" của thi sĩ có thân phận khá đặc biệt này.
3. Trong một tập sách đối thoại về thơ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tùng có dẫn câu nói của nhà thơ Wiliam Carlos Wiliams: "Khó mà có thể tìm ra các tin tức trong thơ, thế nhưng hàng ngày, con người vẫn chết thê thảm vì họ thiếu những điều chỉ tìm thấy trong thơ."(3) "Những điều chỉ tìm thấy trong thơ" đó- dĩ nhiên phải là thơ thứ thiệt- chúng ta có thể tìm thấy trong từng dòng, từng trang thơ NNB mà ở đó anh đã thành thật đến não lòng kể lại: "Thơ tôi đã ra đời trong tiếng gõ cửa dồn gấp, trong những lời kêu thét bệnh hoạn, trong đói nghèo muốn cuốn đời vào hèn hạ, nhưng nó vẫn kiêu hãnh khóc như trẻ sơ sinh, trên cái bàn chỉ đứng ba chân... Tôi đã chép những chán nản ấy, những thất vọng ấy, những cay đắng ấy vào thơ. Và hân hoan thay, thơ trả lại cho tôi những dòng chữ nghĩa như khí cho tôi thở, như lửa cho tôi chế biến thức ăn, như sông suối cho tôi tắm mát. Đó là đức tin phải có, đức tin phải sáng rạng trong tâm hồn..." (Thủng thẳng với thơ). Và với riêng tôi, đây mới là điều đáng yêu, đáng quý nhất của thơ NNB: Trầm lắng vào cuộc đời Dân Tộc, đúng hơn là vào hành trình đau khổ của Dân Tộc- với phương tiện khi là lục bát, lục bát biến thể, khi thơ không vần, thơ văn xuôi...- nhà thơ bằng cách đó đã làm giàu có cho tinh thần mình, để trước hết dạy dỗ cho con cháu anh thông qua "Bài ru trằn trọc" về những lẽ đời nghiêm trang cảm động, và bài học quan trọng nhất là tình thương, lòng trắc ẩn- cái điều đang thiếu trầm trọng trong hệ thống giáo dục của ta! (Tôi bỗng nhớ đến Châm ngôn thứ hai trong việc giáo dục học trò ở tác phẩm lớn "Émile hay là về giáo dục" của J.J. Rousseau chính là câu thơ Latin của thi hào Virgile: "Tôi biết điều bất hạnh, chính nó dạy tôi cứu giúp những người đau khổ").
Thưa Bạn đã và sẽ yêu quý thơ NNB, hãy thử, với một cánh cửa tạm mở như trên mà bắt đầu (hay thêm một lần nữa) bước vào thế giới thơ anh, và trước hết hãy đọc nó như đọc một tập kinh cầu nguyện khi ta có Đức tin về Thơ, về Tình thương và Ân nghĩa trong Cõi Đời còn nhiều gian truân và ngang trái này...
Hà Nội, 2011- 2013
Đạo diễn-nhà văn Nguyễn Anh Tuấn
----
* "Thơ Nguyễn Nguyên Bảy I", Nxb Văn học, HN-2010 & "99 khúc tặng Liên", Nxb Văn học, HN-2012
1. Tên những tác phẩm trường ca & thơ dài nổi tiếng củaNguyễn Đức Mậu, Hữu Thỉnh, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Mạnh Hảo...
2. Dẫn theo: "Tâm lý học sáng tạo văn học"- M. Arnaudov, Nxb Văn học, HN-1978, tr.536.
3. Dẫn theo: "Thơ đến từ đâu", Nxb Lao động, HN, 2009
----
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 15/12/2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Người chìm trong hồn thiền – Bài viết Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 15/12/2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Người chìm trong hồn thiền – Bài viết Nguyễn Anh Tuấn
Thứ bảy - 12/10/2013 23:57
Ba năm trở lại đây, Vũ Bình Lục được đông đảo người đọc biết đến không chỉ là một nhà thơ có dấu ấn riêng, mà còn như một nhà nghiên cứu bình luận văn chương cổ điển khá độc đáo. Cái độc đáo trước hết là anh đã "đơn thương độc mã" bước vào cuộc hành trình cực kỳ khó khăn gian khổ, làm cái công việc thực ra là của cả một tập thể, thuộc một viện nghiên cứu nào đó, với sự đặt hàng của Nhà nước và với khoản kinh phí không hề nhỏ; nhưng anh đã một mình âm thầm thực hiện công việc này, bằng khoản lương hưu của một nhà giáo & một cán bộ quân đội cũ, và bằng một sự đam mê kỳ lạ ...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh: Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
NGƯỜI CHÌM TRONG HỒN THIỀN.
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh: Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
NGƯỜI CHÌM TRONG HỒN THIỀN.
Đọc sách: Hồn thiền trong thơ Lý - Trần (Nxb Hội Nhà văn, HN 2013)
Đạo diễn- nhà báo Nguyễn Anh Tuấn
Đạo diễn- nhà báo Nguyễn Anh Tuấn
Ba năm trở lại đây, Vũ Bình Lục được đông đảo người đọc biết đến không chỉ là một nhà thơ có dấu ấn riêng, mà còn như một nhà nghiên cứu bình luận văn chương cổ điển khá độc đáo. Cái độc đáo trước hết là anh đã "đơn thương độc mã" bước vào cuộc hành trình cực kỳ khó khăn gian khổ, làm cái công việc thực ra là của cả một tập thể, thuộc một viện nghiên cứu nào đó, với sự đặt hàng của Nhà nước và với khoản kinh phí không hề nhỏ; nhưng anh đã một mình âm thầm thực hiện công việc này, bằng khoản lương hưu của một nhà giáo & một cán bộ quân đội cũ, và bằng một sự đam mê kỳ lạ như anh bất chợt "ngộ" ra cái sứ mệnh đặt trên đôi vai đơn độc của mình... Cái độc đáo thứ hai, với tư cách là một nhà thơ, anh đã tìm cách "đọc" những tác giả cổ - trung đại Việt Nam, giải mã những giá trị văn chương còn ẩn tàng ở nhiều tên tuổi lớn mà cho đến nay vẫn còn là sự thách đố trong việc nghiên cứu, thẩm định, giảng dạy- bằng trải nghiệm và thi hứng của một tâm hồn thi sĩ từng đứng trên bục dạy văn nhiều năm. Và điều quan trọng hơn cả, hai sự độc đáo này đã được thế chấp, được bảo chứng bằng những trang viết mà nhà thơ Trần Đăng Khoa đã nhận định chính xác là: "rất công phu, cẩn trọng và tinh tế trong việc tuyển chọn dịch thơ và bình giải những tác phẩm kinh điển đặc sắc nhưng đâu có dễ đọc."
Vâng, quả không dễ đọc chút nào những tác phẩm chữ Hán, chữ Nôm trong kho tàng văn học cổ VN... Một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt của thiền sư Pháp Thuận (Quốc tộ) mà tốn không ít giấy mực của nhiều nhà nghiên cứu-giảng dạy khi đưa vào chương trình văn PTTH! Sự cách biệt về thời gian lịch sử, tâm lý thời đại, rào cản ngôn ngữ, thói quen thẩm mỹ, trùng trùng điển cố điển tích, v.v. là những thử thách khiến nản lòng nhiều thế hệ người đọc (trong đó có thầy giáo và học trò) thời hiện đại. Còn với VBL, ta có cảm tưởng anh giống một nghệ sĩ điêu khắc đứng trước một khối đá hoa cương khổng lồ, trong khi mọi người hoảng sợ lo lắng thì anh bình tĩnh, thao tác từng nhát đục với sự chính xác và đầy cảm hứng của một người nắm chắc kỹ thuật đồng thời cũng nhìn thấy trước sản phẩm của mình trong tâm tưởng... Từ chỗ bình giải lẻ tẻ những bài thơ cổ, chỉ trong vòng chưa đầy hai năm, VBL đã tập trung vào hoàn thiện các công trình tinh tuyển-bình giải về những tác giả lớn: Cao Bá Quát (tập 4), Nguyễn Trãi (tập 5), và mới nhất là cả một thời đại thi ca sáng chói Lý - Trần!
Điều đặc biệt nhất ở Hồn thiền trong thơ Lý - Trần, cái khu biệt với những cuốn sách cùng loại của VBL hay của những tác giả khác, chính là phần dịch thơ bằng thể lục bát của VBL! Dịch thơ cổ theo kiểu VBL, đó cũng là một cách "đọc" khá độc đáo của một nhà giáo-nhà thơ-nhà nghiên cứu đối với văn bản thơ cổ. Tác giả biết rõ sự khác biệt & chênh lệch giữa thể thơ Đường luật với thể thơ lục bát dân tộc, nhưng anh đã tự tin, chủ động và say sưa với sự chuyển ngữ theo cách này. Bởi thực tế, cùng những lời bình giải khúc chiết thấm đẫm hồn thơ của tác giả, những dòng thơ dịch bằng lục bát của anh đã bổ sung một cách thấm thía/ đắc địa cho lời bình, là một con đường mới đưa người đọc thấm vào hồn vía sâu thẳm của tác phẩm! Khi dịch lục bát, phá đi hoàn toàn thể cách của nguyên tác, dường như VBL cũng đang làm thơ theo nghĩa sáng tạo tác phẩm cho riêng mình? Nhưng trong khi thăng hoa với chất liệu sống & thi liệu của của một bài thơ nào đó, anh đã cố gắng ở mức độ cao nhất thể hiện tinh thần nguyên tác- bởi đó là mục đích chính của người làm sách: đem đến cho người đọc cái tinh túy của của tác phẩm, giúp người đọc đồng cảm với tâm sự sâu kín nhất của tác giả. Đọc thơ người xưa, VBL như lắng mọi giác quan của mình để không bỏ sót bất cứ một chi tiết, một thi ảnh, một tiếng động nhỏ bé nào rồi từ đó vận dụng suy tưởng, các kiến thức văn học, xã hội, tự nhiên, triết học... một cách nhuần nhị nhằm phát hiện ra cảnh ngộ & thực chất tâm trạng thi nhân, và cùng tác giả "ngộ " ra điều gì đó về chân lý cuộc đời.
Tuy thao tác phân tích bình giải thơ của VBL đã đạt tới sự thành thục song không hề mất đi độ rung cảm tươi mới, sự đằm thắm trước mỗi tác phẩm cụ thể, như lần đầu tiên anh được đọc và phát hiện ra vẻ đẹp tiềm ẩn trong chúng. Đây thực sự là kết quả của lòng yêu thơ tới độ say đắm, của một bề dày kiến thức văn hóa nhiều mặt cùng những kinh nghiệm hàng chục năm giảng dạy văn chương. Với 63 tác giả và 165 bài thơ chọn dịch & bình giải, VBL đã thực hiện được một công trình văn học kỷ lục "vô tiền khoáng hậu"!
Đọc cuốn sách này, không ít người đọc sẽ phải ngỡ ngàng khi biết rằng: thượng tướng thái sư Trần Quang Khải không chỉ nổi tiếng với bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư có âm hưởng tráng ca thể hiện khát vọng bảo vệ Tổ quốc và tầm nhìn xa trông rộng của một nhà lãnh đạo tài giỏi, ông còn là tác giả của những áng thơ man mác nỗi niềm thế sự có sức trường tồn với thời gian, như: Lưu gia độ, Xuân cảm... Ở mảng thơ thời Lý, thời thịnh Trần, như nhiều nhà nghiên cứu phê bình khác, VBL cũng tiếp tục khám phá, bình giải vẻ đẹp của ý thức độc lập tự chủ, của hào khí anh hùng bất khuất Đại Việt, nhưng theo tôi phần đóng góp thực sự của anh, xét về công sức lẫn dấu ấn riêng biệt, chính là ở mảng thơ thời vãn Trần với âm điệu trữ tình bản thể, mà nổi bật là nỗi lo đời thương dân trĩu nặng, tâm trạng buồn chán, thất vọng trước tình trạng triều chính rối ren nhiễu loạn! Với những tác giả giai đoạn này, vốn quen thuộc như Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Phạm Sư Mạnh, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh... hoặc không ít tác giả thơ tuyệt hay song chưa được biết đến nhiều, như Nguyễn Trung Ngạn, Trần Quang Triều, Nguyễn Sưởng, Nguyễn Ức, Phạm Ngộ, Đỗ Tử Vi, Phạm Mại..., VBL đã dành cho họ những trang viết và những dòng thơ dịch có thể nói là của người tri âm! Nếu như những bài kệ giàu triết lý, những bài thơ hào sảng tinh thần dân tộc thời Lý- Trần khi dịch qua lục bát, nhiều chỗ người đọc cảm thấy chưa thỏa mãn, thì hầu hết thơ dịch lục bát thời vãn Trần của VBL đều có thể khiến người đọc "tâm phục khẩu phục"!
Và cũng cần ghi nhận một đóng góp nhiều ý nghĩa của VBL khi tuyển-dịch-bình thơ Lý - Trần: anh đã cố gắng qua thơ xưa để dựng lên chân dung tinh thần cao quý, nhân cách đẹp đẽ của các vị hoàng đế, thiền sư, danh tướng, danh nho đáng yêu đáng kính (thậm chí trong số đó có những người không rõ lai lịch), và nêu ra một cách thuyết phục những bài học nhân sinh sáng rõ, cần thiết cho đời sau. Viết về thơ Nguyễn Ức, một vị quan từ bỏ công danh về sống cảnh quê nghèo, VBL đã có một khái quát nhưng giàu cảm xúc, vừa thâu tóm được nội dung của bài thơ đang bình, lại vừa xác định một hướng lý luận cơ bản cho việc bình giải thơ của anh: "Nghệ thuật khoa trương trong miêu tả, có thể chỉ góp thêm cái phần mỹ cảm trong thơ, chứ không thể thay thế được phẩm chất tâm hồn trong trẻo của thi nhân". Sau khi giúp người đọc hiểu được bài thơ Đề ẩn giả sở cư họa vận bằng thơ dịch và khắc họa lại chân dung một ẩn sĩ nơi rừng suối cùng tấn bi kịch của người "buộc phải nhàn", VBL nhận định về Nhân cách và Thơ ca của tác giả một cách ngắn gọn đầy sức nặng: "Phạm Mại là một vị quan Ngự sử cương trực, thẳng thắn, không chịu ngồi yên nhìn sự bất bình. Thơ ông thể hiện được cái chí ấy, nhưng lại trữ tình hào hoa". Hai câu thơ của Băng Hồ Trần Nguyên Đán: Tam vạn quyển thư vô dụng xứ/ Bạch đầu không phụ ái dân tâm được VBL dịch như sau: Đọc nhiều, nào ích chi đâu/ Phụ lòng dân, đến bạc đầu chửa an. Và anh bình, tựa một lời thở than ngậm ngùi phải nuốt nước mắt vào lòng: "Nhà nho đọc rộng biết nhiều, chẳng những không cứu được cơ nghiệp họ Trần, mà còn chẳng cứu được sinh dân trong đói nghèo, chẳng đáng xấu hổ hay sao! Đó cũng chính là nỗi xót xa đau đớn của kẻ sĩ, lại có trọng trách lớn với triều đình, với Dân với Nước. Câu thơ như một tiếng thở dài bất tận." Đọc Chu Đường Anh- tác giả còn lưu lại một bài thơ, VBL viết: "Tác giả thông qua bài thơ đề tranh Đường Minh Hoàng tắm ngựa để gửi gắm ý ngầm phê phán vua Trần, rộng ra là triều đại nhà Trần đang trên đường tuột dốc. Hai câu thơ tình ý như thể đặt ra một giả thiết, lại như thể một câu hỏi tu từ, tức hỏi để mà khẳng định, rằng: Nếu vua yêu ngựa như dân/ Dân đâu đến nỗi muôn phần khổ đau! Kẻ sĩ muôn đời thường cả nghĩ như vậy... Quyền lực và bạc tiền đã biến những ông vua ngu hèn thành những con rối của trò chơi chính trị và ham muốn thấp hèn. Bậc trí giả không có cơ hội trình bày trực tiếp, chỉ gửi gắm qua những vần thơ thâm hậu, cũng là lời cảnh tỉnh đến muôn sau. Thế chẳng phải văn chương chẳng những làm đẹp cho đời, còn có sức mạnh thúc đẩy con thuyền dân tộc đi lên đấy ư?" Qua hai bài thơ của vua Trần Minh Tông, VBL đã đọc ra được nỗi ân hận muộn mằn, day dứt khôn nguôi của ông về một vụ án oan cũ là trót nghe lời dèm pha giết hại người vô tội: Lầm xưa thoắt mấy mươi năm/ Đành ôm sầu hận lặng thầm nghe mưa (Mưa đêm). Sau khi cảm nhận cái hay, cái tình của thơ ông vua nhân hậu, VBL bình luận: "Một con người đang nắm quyền lớn, chịu trách nhiệm lớn trước thiên hạ, mà tự phán xét để nhận biết sai lầm, tự ăn năn hối cải, tự nghiêm túc sửa chữa sai lầm, chẳng phải là một nhân cách đáng trọng hay sao?"
VBL có khả năng thâm nhập vào nhiều cảnh ngộ & tâm trạng của tác giả thơ lẫn nhân vật trữ tình- lúc lận đận bên trời đi sứ, khi thả hồn trước thiên nhiên tráng lệ, lúc quặn đau bởi vận nước suy tàn... để có thể đồng cảm sâu sắc với những nỗi niềm được gửi gắm qua câu chữ. Đọc, dịch bài thơ Trước thuyền ngắm cảnh chiều hôm, tới câu kết: Nhặt xanh gom thắm đủ rồi/ Lặng ngồi bên cửa rối bời tâm can, VBL đã viết như chính anh đang ứa lệ cùng nhà nho Nguyễn Tử Thành: "Chu trung vãn thiểu, chính là lời than vãn đau đớn của tác giả, trước hiện tình đất nước đang hồi điêu linh. Dân đen cùng cực, triều đình nhiễu loạn, gian thần tác oai tác quái. Những người trung nghĩa phải cắn răng nuốt hận mà thở dài. Thật buồn bã lắm thay!"
Trong việc bình giải thơ cổ Lý - Trần, VBL đã soi chiếu chúng trước hết bằng những thủ pháp nghệ thuật phương Đông: tìm cái động trong cái tĩnh, đi từ toàn cảnh tới chi tiết, từ xa tới gần, từ cái thực tìm cái tượng trưng hay ngược lại, lấy vật thể diễn tả sự chuyển động của cái vô hình (thời gian, lòng người, v.v), vẽ mây để tả trăng... Anh thường liên hệ đối tượng bình giải của mình với thi ca nhiều thời đại, nhiều nền văn hóa khác nhau; thậm chí anh còn lấy cả trải nghiệm của mình ở đoạn đời người lính trận để hiểu thêm thơ xưa! Anh miêu tả thơ cổ bằng con mắt tinh tường nhìn ngắm một bức tranh thủy mạc, và bằng toàn bộ cảm giác trước âm thanh, ánh sáng thiên nhiên, hành động lẫn tâm tư của nhân vật trữ tình... với tất cả sự rung động của người thưởng thức trước khi làm người bình giải. VBL còn mạnh dạn đánh giá, so sánh công bằng về trình độ nghệ thuật thơ giữa các tác giả- không hề nể nang về nhân cách hay địa vị xã hội của tác giả đó...
***
Với tên sách Hồn thiền..., người đọc có quyền mong tác giả khai thác sâu thêm chủ yếu ở phần giới thuyết về cơ sở xã hội cũng như nền tảng của triết lý Thiền tông thời Lý - Trần, đặc biệt là phái Thiền Trúc Lâm do vua Phật Trần Nhân Tông khởi dựng xuất phát từ Thiền phái Thảo Đường thời Lý, tới vua Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ... Người đọc có thể không đồng tình lắm với một vài bình giải, như về thơ của thiền sư Đạo Tái Huyền Quang, bởi tác giả có lẽ chưa thấy hết tính chất nhập thế của một dòng thiền thuần Việt mà đệ tam tổ Thiền phái Trúc Lâm đang đại diện lúc ấy... Song những điều đó không ảnh hưởng là bao tới chất lượng cuốn sách. Với những gì đã hiển hiện trên hơn 700 trang sách, ta có thể vui mừng trước sự đóng góp đáng kể của nhà thơ VBL cho sự nghiệp nghiên cứu & truyền bá những giá trị vô giá của văn học cổ điển nước nhà. Và chỉ riêng cái tâm nguyện trở về thơ xưa mong tìm lại những mạch nguồn tinh thần Dân tộc đặng góp vào sức mạnh giữ Nước cho hôm nay đã là điều vô cùng đáng trân trọng!
Hà Nội, 2013
(Đạo diễn Điện ảnh)
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 12/10/2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Con đường của câu thơ sớm bạc đầu đá núi – Bài viết đạo diễn/ nhà văn Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 12/10/2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Con đường của câu thơ sớm bạc đầu đá núi – Bài viết đạo diễn/ nhà văn Nguyễn Anh Tuấn
Thứ ba - 01/10/2013 17:04
Thay lời mở Tập thơ này là tập thứ 9 của Dương Tam Kha. Và là tập thơ thứ hai sau khi anh rời Sơn La - nơi mà anh từng bao năm "một mình một bóng gói lời nhớ thương..." Rời vùng núi Tây Bắc để lên sống vùng núi Đông Bắc, có thể gặp nhiều thú vui hơn, nhưng xem ra anh chưa giây phút nào quên nổi "Đường núi" gắn với một thời tuổi trẻ cơ hàn. Người trai đêm này lang thang Cô đơn rừng xa lối vắng Tìm em bóng hình thấp thoáng Chập chờn thao thức miên man...
Bút danh: Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
CON ĐƯỜNG CỦA CÂU THƠ SỚM BẠC ĐẦU ĐÁ NÚI
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
CON ĐƯỜNG CỦA CÂU THƠ SỚM BẠC ĐẦU ĐÁ NÚI
Tập thơ này là tập thứ 9 của Dương Tam Kha. Và là tập thơ thứ hai sau khi anh rời Sơn La - nơi mà anh từng bao năm "một mình một bóng gói lời nhớ thương..." Rời vùng núi Tây Bắc để lên sống vùng núi Đông Bắc, có thể gặp nhiều thú vui hơn, nhưng xem ra anh chưa giây phút nào quên nổi "Đường núi" gắn với một thời tuổi trẻ cơ hàn.
Người trai đêm này lang thang
Cô đơn rừng xa lối vắng
Tìm em bóng hình thấp thoáng
Chập chờn thao thức miên man...
(Tình anh)
Nơi ấy, chỉ một hình bóng nhỏ nhoi của núi rừng vụt qua ký ức cũng khiến hồn thơ anh thổn thức, dạt dào:Khăn Piêu em thêu dưới ánh nắng vàng... Đêm đêm đầu sàn chuốt từng sợi trăng (Mùa lau chín)- Bước chân nàng tiên núi rừng in bóng (Đêm hội)- Em dệt sợi lanh dài đợi chàng cả mùa trăng (Tình núi)
Anh dường như lúc nào cũng nghe thảng thốt trong tâm tưởng lời gọi của cô gái mặc áo cóm phăn piêu vẫy gọi bên suối trong:
Anh dường như lúc nào cũng nghe thảng thốt trong tâm tưởng lời gọi của cô gái mặc áo cóm phăn piêu vẫy gọi bên suối trong:
Về đi anh! Về đi anh!
Trăng đầu non nụ biếc xanh chồi
Vầng trăng khuyết vơi đầy mong đợi
Bờ suối vắng em nhớ lời hò hẹn
Cây cầu đong đưa lắng nhịp bàn chân
(Anh có nghe)
Nơi ấy có "Những tháng ngày rộng dài" và cũng tràn ngập nỗi cô đơn ngọt ngào:
Măng rừng rau ngải đắng
Một mình đồi núi vắng
Em xa và rất xa...
(Soi Gương)
Không phải ngẫu nhiên mà Sông Đà thành nỗi nhớ/ Theo suốt cuộc đời tôi... (Nhớ sông Đà). Bởi anh đã từng đi tới ngọn nguồn sông Đà trong bao niềm khát khao mơ mộng, và cũng có cả nỗi tuyệt vọng đớn đau; song mảnh đất ấy, cánh rừng ấy và dòng sông ấy cũng là cội nguồn tình yêu của đời anh:
Nhớ thuở ban đầu anh yêu em
Nơi cánh rừng hoang vu mặt trời đậu đỉnh tầng tán lá
Mầm cây vươn mình đón ánh bình minh
Những giọt sương lung linh tan dần vào thinh không trầm lặng
Những chú chim rừng líu lo, nắng tràn dát quanh cổ thụ...
(Cõi mộng)
Một trong những bài thơ làm gần đây nhất đã cho thấy cảm nhận của anh về Tây Bắc sao mà rực rỡ, bay bổng, tựa như anh được sống trong giấc mộng- dù đó chỉ là những hình ảnh của thực tế:
Bản nhỏ cheo leo giữa rừng
Rực rỡ khăn piêu, áo váy, đệm bong
Trinh trắng thơm hương ban nghiêng bờ suối
Sơn nữ hay nàng tiên rạng ngời ánh trăng?...
Và không chỉ là giấc mộng đẹp mà còn có cả ác mộng nữa:
Cánh rừng nguyên sinh thiên nhiên kiệt cùng sự sống
Dòng sông đỏ thác réo gầm rừng động...
(Rừng hoang)
Những mảnh ký ức đắm say về "Đường núi" thường đến với Dương Tam Kha trong cảnh vật phố thị ồn ào xa lạ:
Dòng người trôi muôn ngả đường đời
ánh đèn phố thị nhạt nhòa
Ngõ quanh mịt mờ cát bụi...
(Kí ức)
Từ điểm tựa là "Đường núi", anh ngẫm chuyện đời từ thuở hồng hoang (Biển tắm Ngọc Vừng) và nhớ lại "Tình đầu" xa lắc:
Trăng soi đỉnh núi
Trời đầy sương
Mây trắng mênh mang...
Và cũng với cái hồn vía thẳm sâu của "Đường núi", anh thường gắng tìm đến chân dung tinh thần đích thực của mình giữa cuộc đời ngổn ngang:
Nhiều lúc cầm gương soi
Tóc râu ngày thêm bạc
Công danh, chức quyền xa lánh
Mây ngưng lưng núi đỉnh ngàn
Ước mình chim trời vỗ cánh...
(Mưu sinh)
Quầng mây đen phủ kín bầu trời
Lợi ích nhóm bầy người chia chác
Cáo buộc, mọn hèn, bon chen
Thoảng hương thơm đài sen tỏa ngát
Đóa quỳnh đêm khuya thanh khiết
Non cao vầng trăng ngời sáng
(Đêm khuya)
Thôi hãy quên một đời từng khổ nhục
Lũ gian tà kéo vây cánh bủa quanh
Ngẩng cao đầu đôi chân ta mạnh bước
Tạc dáng hình cổ tháp trước bình minh...
(Dáng hình cổ tháp)
Chỉ những người quen sống ở rừng, ở đường núi, mới có thể có sự quan sát tỉ mỉ và khác lạ về cảnh vật xứ biển như thế này:
Những con còng gió ngây thơ bờ lá cỏ
Bầy dã tràng se tổ nương than
Con ốc biển vùi mình cát lấp
Muôn lớp sóng dồi quặn lòng biển đau.
Trong tập thơ mới nhất này của Dương Tam Kha, có lẽ nổi bật hơn cả về nghệ thuật chính là chùm thơ 4 câu và chùm thơ Hai Ku. Tôi chỉ xin phép dẫn lại đôi bài để nhấm nháp cái thú vị của thơ một người từng làm hàng trăm bài thơ dài, từng viết cả trường ca, đã tự nhốt mình một cách khá nhuần nhị trong câu chữ hạn chế mà dư ba mãi không dứt:
Nghe đêm gió hát động cành
Sương khuya ủ lạnh liếp mành song thưa
Nghe đơn côi gối chăn thừa
Tỉnh mơ em hiện trăng vừa ghé thăm...
(Nghe đêm)
Sự đời khi nắng khi mưa
Nhớ trung du biết bao giờ cho nguôi
Chiếu gon trải giữa sân đồi
Một mình chuốc cạn trăng trời chưa say...
(Lại nhớ Trung du)
Gắng non mòn sông cạn
Rừng sâu sương rơi đầm mắt phật
Lòng thành lộc trời ban.
Hồn lạc mờ khói sương
Câu thơ sớm bạc đầu đá núi
Cửa từ bi tỏa hương.
Gió cát lặng thầm hát
Biển cả bao dung thuyền xuôi ngược
Nước mắt đời mặn chát.
Tiếng ve xanh hàng cây
Hè tàn xác vùi sâu đáy cỏ
Phách hồn đợ chốn đời.
Cành tre trăng non đậu
Sóng biển mênh mang thuyền cập bến
Đất trời nối duyên đầu.
Trước sau, Dương Tam Kha bạn tôi vẫn là người mang cái nghiệp vừa khốn khổ vừa kiêu hãnh, cái nghiệp của kẻ "phiêu dạt giang hồ"- song cũng bình dị như người đi chợ, làm ruộng mà thôi:
Sột soạt ngọn bút chạy tràn trang giấy trắng
Người đàn bà thức giấc nửa đêm
Chờ phiên chợ sáng đèn trăng
Đồng bãi ngày giáp hạt
Gùi yên lưng ngựa phiêu dạt giang hồ...
(Đêm)
Chắc lúc này, Dương Tam Kha lại đang ngẩn ngơ nhớ về "Đường núi" thân thuộc và đắng cay của hai chúng tôi...
Hà Nội, thu 2013
(Đạo diễn Điện ảnh)
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 01/10/2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 01/10/2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Tính dân tộc trong điện ảnh là một thứ xa xỉ phẩm – Tham luân của Nguyễn Anh Tuấn
Thứ sáu - 30/08/2013 20:47
Tôi phải xin lỗi trước với một tiêu đề như vậy- đó là một cách để bản thân tôi tránh xa những người thường mang cái gọi là "Tính dân tộc trong Đ/Ả" ra làm khiên che, làm bùa hộ mệnh cho những yếu kém trong tác phẩm của mình, tệ hơn là lấy nó làm "ông ngáo ộp" dọa người khác. Điện ảnh là một ngôn ngữ quốc tế, và nói như nhà điện ảnh học người Pháp Georges Sadoul: "là quan trọng nhất trong các nghệ thuật, đồng thời cũng là phổ cập nhất, tại các nước XHCN cũng như tại các nước tư bản CN" (LSĐA thế giới, NXB Ngoại văn & Trường ĐHSK-ĐA HN- trg 7). Nhưng phổ cập nhất, cũng có nghĩa nó cũng mang ở nội hàm của nó tính dân tộc khi phim nói tiếng của chính cái nơi mà phim được sản xuất-phát hành...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh: Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
TÍNH DÂN TỘC TRONG ĐIỆN ẢNH LÀ MỘT THỨ XA XỈ PHẨM?
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh: Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
TÍNH DÂN TỘC TRONG ĐIỆN ẢNH LÀ MỘT THỨ XA XỈ PHẨM?
Nhân Hội thảo: Tính dân tộc trong điện ảnh (Tại Hà Nội, 30-8-2013)
Đạo diễn- nhà báo Nguyễn Anh Tuấn
Đạo diễn- nhà báo Nguyễn Anh Tuấn
Tôi phải xin lỗi trước với một tiêu đề như vậy- đó là một cách để bản thân tôi tránh xa những người thường mang cái gọi là "Tính dân tộc trong Đ/Ả" ra làm khiên che, làm bùa hộ mệnh cho những yếu kém trong tác phẩm của mình, tệ hơn là lấy nó làm "ông ngáo ộp" dọa người khác. Điện ảnh là một ngôn ngữ quốc tế, và nói như nhà điện ảnh học người Pháp Georges Sadoul: "là quan trọng nhất trong các nghệ thuật, đồng thời cũng là phổ cập nhất, tại các nước XHCN cũng như tại các nước tư bản CN" (LSĐA thế giới, NXB Ngoại văn & Trường ĐHSK-ĐA HN- trg 7). Nhưng phổ cập nhất, cũng có nghĩa nó cũng mang ở nội hàm của nó tính dân tộc khi phim nói tiếng của chính cái nơi mà phim được sản xuất-phát hành...
Hồi mới về Xưởng phim truyện VN (sau thành Hãng PTVN) hành nghề, một trong những ấn tượng sâu sắc nhất của tôi là khi xem một bộ phim chiếu bản đầu tại cơ quan (tức là bản phim positif vừa hoàn thiện còn "tươi dãy đành đạch", bản chưa phát hành): phim "Bao giờ cho đến tháng mười" của đạo diễn Đặng Nhật Minh. Tới đoạn nhân vật Duyên (Ái Vân đóng) xem hát chèo "Trương Viên" trong sân đình, khi Trương Viên chia tay dặn dò người vợ để rồi sau đó cùng các trai tráng lên đường chống giặc, tôi đã không cầm được nước mắt. Lúc đó, nếu ai thuyết phục tôi rằng: cảnh gây xúc động đó là một thành công đặc biệt của tính dân tộc, tôi sẽ tin sái cổ. (Và hồi đó, bên cạnh những lùm xùm gây khó dễ cho tác giả phim là "đã tuyên truyền mê tín dị đoan" khi đưa lên màn ảnh phiên chợ Âm Dương"- cũng là một thứ dân tộc tính!- thì những lời khen phim tràn ngập cũng chủ yếu xoáy sâu vào "Tính dân tộc" của bộ phim). Nhưng với năm tháng, suy xét lại, tôi thấy rằng cái hay cùng những thành công của bộ phim này đâu phải là do "Tính dân tộc" mà người ta đã gán ghép một cách ép uổng! Người xem nước ngoài phần lớn đâu có hiểu/ thích chèo cổ VN, phiên chợ Âm Dương của đất Kinh Bắc..., nhưng sao họ thích thú, và đánh giá bộ phim trên là một trong 10 phim hay nhất của Châu Á thế kỷ XX? Đoạn trích chèo cổ đó thực ra đã được tác giả tính toán kỹ lưỡng, có sự chuẩn bị chu đáo từ trước và đưa vào đúng chỗ, để nó trở thành một tình tiết hữu cơ & quan trọng của đường dây câu chuyện - xung đột phim, khiến người xem tới lúc đó hoàn toàn đồng cảm với tâm trạng & hoàn cảnh của nhân vật chính (Duyên). Khi ấy, tiếng hát nghẹn ngào của diễn viên chèo (dù âm thanh phim hồi đó rất tồi), áo mớ bảy mớ ba, giọt nước mắt chia ly của người đi người ở lại... mới có thể góp thêm ngọn gió đưa cảm xúc người xem phim bay lên!...
Trong phim của ta mấy chục năm qua, không hiếm những bộ phim hoành tráng có những yếu tố hình thức hứa hẹn về "Tính dân tộc" cũng hoành tráng chẳng kém, thế nhưng khi xem xong, đa số người xem ngẩn ngơ: Ừ, đúng là có nhiều nét dân tộc thật, song tại sao ta không thấy xúc động, không lưu lại được điều gì để ngẫm nghĩ?
Tôi xin phép dẫn vài ví dụ.
Bộ phim "Mê thảo- thời vang bóng" (đạo diễn Việt Linh) đúng là "chuột sa chĩnh gạo dân tộc" nhé: ở đó có những phụ nữ mặc váy yếm, những điệu hát ca trù, những chiếc đèn giời, sinh hoạt của giới địa chủ, nghề làm tơ tằm, những cuộc biểu diễn nghệ thuật truyền thống (mà cảnh trò vợ trẻ cõng chồng già sẽ còn gây được hiệu quả ít nhiều nếu như nó không từng bị nhàm chán vì lạm dụng trong một phim lịch sử cách đây mấy chục năm!)... Quả là một cuộc triển lãm dân tộc học tưng bừng về Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX! Nhưng xem xong phim, nhiều người thấy thiêu thiếu một cái gì… Hóa ra, cái thiếu đó chính là ngọn lửa ở bên trong tác phẩm, là thái độ ngay thẳng bênh vực con người, là cái thông điệp về nhân sinh ngầm sâu mà những người làm phim cần gửi đến người xem qua hàng loạt những hỉ, nộ, ái, ố, những cảnh sắc, những trang phục và diễn xuất… Cảm giác bao trùm đối với nhân vật chính trong gần hết bộ phim là một sự ghê rợn, kinh sợ bởi những hành động chẳng ra người chẳng ra thú. Người xem buộc phải trở lại câu hỏi day dứt: vậy bộ phim được làm ra để làm gì? Cả một bộ phim tốn kém dài hơn trăm phút không lẽ chỉ nhằm đưa ra một lời khuyến cáo đơn giản sau cùng và cũng đầy khiên cưỡng: “mọi sự mê muội đều phải trả giá”? Tiếng hát ca trù của cô Tơ cùng tiếng đàn “chảy máu năm đầu ngón tay” của quản Tam dù có rung động lòng người dẫn đến cái chết cứu mạng ân nhân của Tam cũng không giúp gì nhiều cho phim khi phim đã không có cái cột trụ vững chắc là một tư tưởng nghệ thuật sâu sắc.
Hay như phim "Đất nước đứng lên" (đạo diễn Lê Đức Tiến). Phụ nữ Tây Nguyên thời đó thường ở trần, theo phong tục, và cũng bởi nghèo túng; nhưng ở trong bộ phim này, những phụ nữ trẻ để trần lộ cả hai bầu vú đầy đặn lại được mặc những chiếc váy mới có thêu hoa văn rất đẹp. Dân tộc tính quá chứ gì? Bộ phim còn đầy ắp những chi tiết phong tục, thừa thãi những cảnh quay về sinh hoạt văn hóa dân gian; song chúng ít được gắn với những tâm trạng, những cảnh huống kịch tính, những số phận cụ thể, và chính vì thế cái ấn tượng ôm đồm, tham lam, phô bày một cách cố tình lại càng nổi cộm trong khán giả (Ví dụ tiêu biểu nhất là đoạn những bức tượng nhà mồ được gom lại và được ống kính máy quay miêu tả như một cuộc triển lãm tượng!) Khi người xem được thông tin rằng (chỉ bằng một lời thoại): địch có âm mưu sẽ lấy hết dụng cụ lao động bằng sắt của nguời Kông Hoa, thì liền sau đó được xem những cảnh chặt cây cổ thụ bằng đá sắc cạnh! Địch có phép thần thông biến hóa hay sao mà người dân Kông Hoa di chuyển lên núi đựợc an toàn kể cả mọi vật dụng gia đình nhưng lại không giữ nổi các đồ dùng lao động bằng sắt- vật dụng có ý nghĩa sống còn đối với người dân miền núi?! Nếu các nhà làm phim có ý định thần thánh hóa kẻ địch thì cũng nên dành vài mét phim để thỏa mãn óc tò mò của khán giả và tăng thêm yếu tố ly kỳ bên cạnh tính dân tộc đã đậm đà sẵn (ví như cho tên quan ba Pháp đọc câu thần chú chẳng hạn!!!) Ngay sau những cảnh quay mô tả kỹ lưỡng việc chặt cây rừng bằng đá với những bàn tay bật máu ra sao, người xem thấy xuất hiện lừng lững một ngôi nhà rông khổng lồ với những tấm ván xẻ cỡ lớn- có quay đặc tả. Điều phi lý như vậy cũng xảy ra khi người làm phim cho các diễn viên đóng lính Tây cứ tập trung vào một chỗ để dân làng Kông Hoa tha hồ bắn, giết cho hả dạ. Đánh Tây, giết Tây ở một vùng Tây Nguyên thời ấy dễ như thế sao? Hay người làm phim cho rằng để xây dựng lên một huyền thoại về những người dân Tây Nguyên anh hùng thì chẳng cần đếm xỉa đến tính hợp lý, đến sự thật, kể cả sự cảm thụ của người xem bình thường, và như vậy mới làm tăng thêm tính dân tộc? Giữa núi rừng Tây Nguyên trùng điệp và âm thanh của cồng chiêng, giai điệu trữ tình mang bóng dáng đồng bằng Bắc Bộ của một bài hát rất hay như "Bộ đội về làng” (nhạc sĩ Lê Yên) bỗng trở nên vá víu, lạc lõng đến tội nghiệp! Ai dám bảo hai bộ phim kể trên thiếu "Tính Dân tộc"? Thế nhưng sự thừa thãi dân tộc tính kiểu như thế, theo thiển ý của tôi, thì tính dân tộc đúng là một thứ xa xỉ phẩm của Điện ảnh!
Vấn đề "Tính dân tộc trong ĐẢ" qua việc làm phim (và các hội thảo về phim) của ta lâu nay thường vẫn cứ bị đánh lộn sòng, bị thả hỏa mù như vậy; trong khi đó, cái người xem cần không phải là những cuộc trưng bày "mãn nhãn" về dân tộc, mà là một cái nhìn mới, một cảm xúc mới sau khi màn hình hiện lên chữ Hết phim. Như thế, yếu tố dân tộc trong phim thể hiện qua bối cảnh, phục trang, hóa trang, lễ hội... xét cho cùng chỉ góp phần vào chất "kỳ" (ésotique), chỉ là yếu tố phụ trợ, đứng sau những yếu tố nội dung- tư tưởng của phim, chúng được nhà làm phim xử lý một cách nghệ thuật- qua cấu trúc phim, lý giải nhân vật, chi tiết đời sống chắt lọc, v.v. Hay nói chính xác hơn, cái được gọi là "tính dân tộc" đó phải chìm lặn tự nhiên trong tâm lý tính cách nhân vật có sức thuyết phục, trong các tình huống phim được thiết kế hợp lý. Một cảnh phim, chứ chưa nói đến cả một bộ phim, để người xem có thể chấp nhận, ít nhất phải chứa đựng tính chân thực của đời sống; còn tính dân tộc- nếu có, thì cũng bắt buộc phải mang yếu tố phổ quát có tính nhân loại. Những bộ phim kinh điển thế giới như: Chiến hạm Pachômkin, Người thứ bốn mốt, Đàn sếu bay (Nga), Kẻ cắp xe đạp, Rôm lúc 11 giờ, Anh em nhà Rôccô (Ý), Sự ra đời của một quốc gia, Cuốn theo chiều gió, Công dân Kên (Mỹ), Ratsômông, Đảo trụi (Nhật), Cái sừng dê (Bungari), Nhạc trưởng (Ba Lan)...; hoặc gần đây nhất là những phim được trao giải thưởng Oscar của Viện Hàn lâm Khoa học-Nghệ thuật ĐẢ Hoa Kỳ, Cành Cọ Vàng của LHP Cannes như: The King's Speech (Diễn văn của nhà vua), The Artist (Nghệ sĩ ), The Tree of Life (Cây đời), v.v. khi làm ra đâu có cần đến khẩu hiệu "Nâng cao tính dân tộc trong phim" để có thể chinh phục hàng bao thế hệ khán giả khắp thế giới?!
Hà Nội, tháng 8-2013
(Đạo diễn Điện ảnh)
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 30/08/2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Người thức qua cuộc đời nhìn tình yêu – Bài viết Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 30/08/2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Người thức qua cuộc đời nhìn tình yêu – Bài viết Nguyễn Anh Tuấn
Thứ năm - 15/08/2013 18:42
Thị trấn Xuân Hòa - Vĩnh Phúc hai mươi năm trước... Tối mịt, sau khi ăn uống quấy quá cho xong tại quán cơm bình dân, tôi và Trần Hòa Bình đang định quay lên căn phòng tập thể của Bình ở Đại học Sư phạm Hà Nội II, thì Bình bảo: "Tôi với ông đi dạo quanh thị trấn đi?" Hồi ấy, chỉ cần ra khỏi khu vực của trường ĐHSP là khung cảnh vắng ngắt, ao chuôm đầm lầy ngổn ngang. Chúng tôi lang thang trong đêm vắng. Chỉ có tiếng côn trùng, ếch nhái hân hoan chào đón những bước chân lãng du...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh: Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
NGƯỜI THỨC QUA CUỘC ĐỜI NHÌN TÌNH YÊU
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh: Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
NGƯỜI THỨC QUA CUỘC ĐỜI NHÌN TÌNH YÊU
Thị trấn Xuân Hòa - Vĩnh Phúc hai mươi năm trước...
Tối mịt, sau khi ăn uống quấy quá cho xong tại quán cơm bình dân, tôi và Trần Hòa Bình đang định quay lên căn phòng tập thể của Bình ở Đại học Sư phạm Hà Nội II, thì Bình bảo: "Tôi với ông đi dạo quanh thị trấn đi?"
Hồi ấy, chỉ cần ra khỏi khu vực của trường ĐHSP là khung cảnh vắng ngắt, ao chuôm đầm lầy ngổn ngang. Chúng tôi lang thang trong đêm vắng. Chỉ có tiếng côn trùng, ếch nhái hân hoan chào đón những bước chân lãng du...
Hồi đó, Trần Hòa Bình còn là một thầy giáo của ngành sư phạm. Thỉnh thoảng, tôi lại phóng xe lên Xuân Hòa với anh, những hôm anh có giờ dạy ở trường. Quang cảnh tịch mịch của thị trấn nghèo không xa lạ với chúng tôi. Nhưng lần nào chúng tôi cũng đều tìm thấy thêm một điều gì đó thi vị, thân thương đối với hai kẻ cô đơn, hạnh phúc gia đình trắc trở... Đi mãi lên gần phía hồ Đại Lải, một cơn mưa giông bất chợt ào xuống, chúng tôi chạy vội trú chân trong một quán lá sơ sài ven đường. Hai đứa rét run, im lặng nhìn mưa đêm, âm thầm theo đuổi những nỗi niềm run rẩy mơ hồ của cõi đời phù du...
Hơn tiếng sau, mưa ngớt, chúng tôi lóp ngóp trở về phòng tập thể của Bình... Quá nửa đêm, khi tôi đang gật gà ngủ ngồi bên một cuốn sách, thì Trần Hòa Bình lay tôi dậy. Anh đã đặt sẵn chai rượu trắng nút lá trên sàn đá hoa. "Ngủ làm gì ông, phí của giời!" Anh với tay lên bàn cầm một tờ giấy có những dòng viết vội. "Làm tí rượu nhạt cho tỉnh, rồi tôi đọc ông nghe. Tôi vừa viết xong đây."
Bình đã đọc cho tôi nghe bài thơ đó, bằng cái giọng sang sảng của một giảng viên văn khoa và đượm nghẹn ngào của của một thi sĩ đa cảm mà sự mộng mị đắm đuối đầy những linh cảm bất trắc đã được khung cảnh vắng lặng nhoè mưa của thị trấn buồn phụ hoạ thêm...
MAI EM VỀ NHÀ CHỒNG
Tặng Nguyễn Anh Tuấn
Cớ sao mắt em buồn như đêm mưa xứ đồi
Cớ sao cơn mưa xứ đồi lại đến cùng anh
Đêm thương buồn giữa hạ?
Chỉ còn đêm mưa này
Ngày mai em về nhà chồng
Mưa giăng trắng cánh đồng
Phố xá sau lưng, bạn bè trăm ngả
Anh nhìn em qua mưa hun hút đường dài...
Mọi sự đều không đúng lúc
Đã quá muộn để nói lời yêu đương
Lại quá sớm khi nói lời giã biệt!
Mai em về nhà chồng
Hết rồi những cơn mưa ướt mái đầu con gái
Một đêm nào chúng ta chia tay
Bong bóng nước dưới chân dập dờn nghìn hoa trắng...
Mai em về nhà chồng
Mưa theo em ròng ròng thương nhớ
Mai em về nhà chồng
Nước mắt gửi vào mưa âm thầm khung cửa...
Anh thức qua đêm nhìn mưa
Anh thức qua năm tháng nhìn em
Anh thức qua cuộc đời nhìn tình yêu
Bong bóng nước trôi xuôi vỡ nghìn hoa cánh trắng
Đâu rồi dấu chân em
In mòn thời thiếu nữ?
Cớ sao mắt em buồn như đêm mưa xứ đồi
Chỉ mình anh nhận thấy?
Sớm mai ra là góc bể chân trời
Chúng mình xa nhau mãi mãi
Đưa tiễn một thời con gái
Mưa bây giờ lùa ướt tóc anh...
Tôi định hỏi ngay: "Vì sao ông lại đề tặng tôi, chẳng phải là ông viết cho Em nào sẽ về nhà chồng?" Nhưng tôi đã không hỏi, và không bao giờ hỏi nữa. Bởi ngay sau đó, tôi chợt đặt mình trong tâm trạng của Bình. Nếu tôi có làm được một bài thơ nào trong đêm ấy, dù là có nghĩ về ai hay làm cho một đối tượng nào đó, tôi cũng sẽ chỉ đề tặng THB mà thôi. Độc thoại trong đêm mưa và đối thoại trong im lặng đã là nguyên cớ để bài thơ ra đời. Cô em nào đấy ngày mai, hoặc ngày kia đi lấy chồng, đâu có quan trọng! Điều chính yếu là từ rất lâu rồi, THB đã để tuột cơ hội tìm một tình yêu và hạnh phúc đích thực... Nỗi cô đơn và cảm giác bất lực xót xa trước những gì tốt đẹp ta hằng khao khát cứ rời xa ta từng ngày từng giờ đã là một nguồn cảm hứng thơ ca của nhiều thời đại; và thật không may (hay là may mắn?) THB đã bị chúng bất chợt "tóm" mất hồn vía trong một đêm mưa thật buồn!
Anh thức qua đêm nhìn mưa
Anh thức qua năm tháng nhìn em
Anh thức qua cuộc đời nhìn tình yêu
Cái cách mà tác giả "thức" qua đêm nhìn mưa để rồi liên tưởng tới những năm tháng dài, tới cả cuộc đời "thức" để nhìn em, để nhìn tình yêu quả là đậm "chất THB": thông minh, biến hóa một cách tài hoa, nhưng nhờ cảm xúc mạnh mà ấn tượng về "tiểu xảo" đã bị xóa nhòa trong thụ cảm người đọc... Thức qua cả cuộc đời để nhìn tình yêu, tìm tình yêu, sao có cái gì đó thật xa vời, vô vọng, song vẫn cứ phải làm thế, như một thứ định mệnh. Có điều, nỗi buồn rưng rưng bởi Tình yêu chưa thành, chưa tìm thấy, ở đây vô tình hòa nhập với khát vọng về sự hoàn thiện nên nó kịp mang một giá trị về Thẩm mỹ và Nhân cách.
Cả cái triết lý này nữa:
Mọi sự đều không đúng lúc
đã quá muộn để nói lời yêu đương
lại quá sớm khi nói lời giã biệt…
Sự thông minh đã không biến chúng thành triết lý vặt, "khổ lắm biết rồi", bởi có những vần thơ phập phồng nhớ thương tiếc nuối làm nền trải khắp bài để chúng trở thành phát hiện bất ngờ mới mẻ về nhân tình thế thái - điều mà chúng ta vẫn gặp phải song ít khi ngẫm về chúng như một chiêm nghiệm thấm thía. Không phải chỉ riêng trong Tình yêu, mà còn cho mọi lĩnh vực của quan hệ xã hội mà ở đây Tình yêu chỉ là một cái cớ trực tiếp, cụ thể, như giọt nước làm tràn cốc nước...
Ông thầy dạy văn bậc đại học giàu hồn thơ THB thời đó dường như vẫn chưa cắt được hết cái "đuôi" của một anh giáo làng quê mà hồi xưa từng được hình tượng hóa trong "thầy đồ Cóc" dân gian, bởi lẽ thi hứng và thi liệu trong bài thơ khá "siêu thực" này lại mang đậm âm hưởng ca dao Bắc Bộ ngàn đời:
Bong bóng nước dưới chân dập dờn nghìn hoa trắng...
Mai em về nhà chồng
Mưa theo em ròng ròng thương nhớ
Mai em về nhà chồng
Nước mắt gửi vào mưa âm thầm khung cửa...
Xứ đồi đêm ấy đã gợi cho THB bao suy tưởng về Xứ Đoài nghèo khó thân thương của anh, nơi anh từng chứng kiến những cơn mưa ướt mái đầu con gái và thẫn thờ trước "dấu chân em/ In mòn thời thiếu nữ"... Trĩu buồn bởi ký ức, nhưng anh đã bình thản để "Đưa tiễn một thời con gái" và chia tay với một "thời xa vắng" của mình:
Cớ sao mắt em buồn như đêm mưa xứ đồi
Chỉ mình anh nhận thấy?
Sớm mai ra là góc bể chân trời
Chúng mình xa nhau mãi mãi
Đưa tiễn một thời con gái
Mưa bây giờ lùa ướt tóc anh...
Có lẽ đây là một trong những bài thơ tập trung nhiều nhất tâm lực, cảm nghĩ, nước mắt, và... cả kỹ thuật thơ của THB! Đêm mưa Xuân Hòa ấy thức dậy trong anh bao đêm mưa và chiều mưa của một tuổi trẻ từ "xứ đồi" ra thành phố, nghèo túng, long đong, phải chật vật tìm hướng đi cho khát vọng đời mình, tìm cách giải tỏa bao cơn "tức nghẹn" của sự nghiệp văn chương, khi Phố xá sau lưng, bạn bè trăm ngả và hạnh phúc tưởng đã nắm gọn trong tay mà hóa ra mịt mù sương khói... Giả sử anh có một cô người yêu nào sắp lấy chồng ngày đó thì chắc cũng không da diết, buồn thương khắc khoải đến thế! Mà thực ra, không ít cô gái- trong đó có học trò thầm đeo đuổi anh chàng tài hoa đeo kính cận dày cộp có khả năng làm tan hoang rơi rụng trái tim người bởi giọng nói tự tin thủ thỉ, và có thể cũng được anh đền đáp ít nhiều về tình cảm, rồi họ chẳng liên tiếp báo tin là sẽ đi lấy chồng đấy thôi! Nói cho công bằng, "cô em mai đi lấy chồng" trong bài thơ là hình bóng của tất cả những cô gái yêu anh, được anh trân trọng tình yêu đó- nhưng họ lại không có điều kiện để đến được với nhau lâu dài... THB ít có khả năng dung hòa được giữa thực tế trần trụi và ước vọng cao vời, anh tìm an ủi trong học trò, bè bạn. Không có bất kỳ khả năng "đập phá" nào, anh tìm sự giải tỏa trong thơ, nhạc, tranh vẽ... Và anh đã chọn một đêm mưa Xuân Hòa, đúng hơn là đêm mưa đó đã chọn anh- khi đồng cảm cùng thằng bạn cũng "ngơ ngẩn" về đời sống như mình, để lưu lại trong vườn Thơ một đóa hoa không màu mà chứa đủ các màu sắc như giọt mưa giữa bầu trời của tâm hồn thi sĩ...
Kỷ niệm 5 năm ngày mất của Trần Hòa Bình
(18/8 /2008 - 18/8/2013)
(Đạo diễn Điện ảnh)
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 15/08/2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Vớ vẩn thôi mà, tiếng ve kêu – Nguyễn Anh Tuấn bình thơ Trần Nhương
Thứ năm - 20/06/2013 01:34
Vào dịp cảm cúm, không còn "địa chỉ trên yên xe", tôi mới có thời gian ngồi giở đọc tập thơ "Gió làng ta xanh ngát" mà họa sĩ - nhà thơ Trần Nhương tặng tôi trong dịp Nguyên Tiêu vừa rồi. Một phần cũng bởi vì, thú thực là tôi không thích thơ Trần Nhương bằng tranh của ông... Nhưng lúc này, đặc biệt là khi dừng lại trước bài thơ "Vớ vẩn thôi mà" trong tập, tôi không cưỡng nổi cái cảm xúc chợt tái hiện lúc ông tặng thơ... Nhìn thấy tôi một tay xách máy quay một tay giữ chặt con gái nhỏ len lỏi giữa đám đông ngày Thơ VN ở Văn Miếu, Trần Nhương đang ngồi vẽ chân dung gọi giật lại và bảo: "Chú em vẫn có bài cho trannhuong.com đây, bác tặng chú tập sách mới!" ...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh: Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
VỚ VẨN THÔI MÀ, TIẾNG VE KÊU!
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh: Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
VỚ VẨN THÔI MÀ, TIẾNG VE KÊU!
Vào dịp cảm cúm, không còn "địa chỉ trên yên xe", tôi mới có thời gian ngồi giở đọc tập thơ "Gió làng ta xanh ngát" mà họa sĩ - nhà thơ Trần Nhương tặng tôi trong dịp Nguyên Tiêu vừa rồi. Một phần cũng bởi vì, thú thực là tôi không thích thơ Trần Nhương bằng tranh của ông... Nhưng lúc này, đặc biệt là khi dừng lại trước bài thơ "Vớ vẩn thôi mà" trong tập, tôi không cưỡng nổi cái cảm xúc chợt tái hiện lúc ông tặng thơ... Nhìn thấy tôi một tay xách máy quay một tay giữ chặt con gái nhỏ len lỏi giữa đám đông ngày Thơ VN ở Văn Miếu, Trần Nhương đang ngồi vẽ chân dung gọi giật lại và bảo: "Chú em vẫn có bài cho trannhuong.com đây, bác tặng chú tập sách mới!" Khá nhiều người vây quanh một chiếc bàn nhỏ kê sát gốc cổ thụ, kèm vài chiếc ghế nhựa. Trên cây có treo tấm bảng nhỏ, chữ nắn nót.... Đó cũng là hình ảnh của ông trong ngày thơ VN tại đây bắt đầu từ năm ngoái: ông vẽ ký họa chân dung-truyền thần tặng cho những ai mua thơ của ông... Lúc đó, tôi bỗng xót xa nhớ đến bố tôi, một họa sĩ mà cực chẳng đã từng nhiều lần phải lặn lội tứ phương vẽ tranh truyền thần để kiếm sống, nuôi một đàn con qua bao thăng trầm chiến tranh, loạn lạc, cơm áo gạo tiền... Tôi chưa muốn nói đến tranh chân dung của họa sĩ - nhà thơ Trần Nhương giống hoặc có hồn của đối tượng nhiều hay ít, bởi điều đó sẽ là vô nghĩa: ở trong bối cảnh tất cả mọi người như đang nhao nhác đi tìm một cái gì mà mình cũng không rõ, giữa cái dư thừa ngồn ngộn cho con mắt và ấn tượng, thì có một người chìm đắm trong niềm mê say của riêng mình, với công việc của một con ve sầu từng bị nhà thơ La Fontaine châm biếm chỉ trích đến sâu cay trong truyện ngụ ngôn "Ve và kiến" (La cigale et la fourmi)1... Cách đây hơn hai chục năm, có một sinh viên khoa biên kịch trường ĐHSK-ĐẢ Hà Nội làm kịch bản phim hoạt hình tốt nghiệp chuyển thể truyện ngụ ngôn này, đến hỏi ý kiến của tôi. Tôi đọc rồi bảo: nếu em cố tình giữ nguyên ý tưởng của nhà văn Pháp này thì cũng tốt; nhưng sao không đặt lại vấn đề: trong suốt mùa hè, nếu không có tiếng ve kêu, cuộc tìm kiếm miếng ăn của đoàn kiến sẽ nặng nề chật vật thêm biết bao nhiêu! Với lại, như một sự phân công xã hội- chưa cần nói đến khái niệm to tát "sứ mệnh", mỗi công việc đều có một ý nghĩa riêng, cần thiết, không thể thay thế được cho nhau... Tôi còn kể cho cô nghe câu chuyện về "Con Ve vĩ đại" Molier do bố tôi kể lại và chúng đã in đậm suốt tuổi thơ tôi đến tận giờ (xin lỗi vì lại nhắc đến bố tôi), nhà viết kịch lớn này đã ném vào mặt những kẻ chê cười hài kịch bằng những lời phẫn nộ: "Các vị cứ khinh miệt đi, cứ riễu cợt đi! Nhưng nên nhớ rằng: nếu không có những trận cười nghiêng ngả sân khấu, không có những niềm vui hả hê và sự xấu hổ nhục nhã sau những trận cười đó, xã hội sẽ trở nên trống rỗng, cái ác sẽ có cơ hội nảy nở như nấm...." (Tôi không còn nhớ nguyên văn, nhưng nội dung chắc chắn là thế). Nhưng sau lần góp ý kịch bản, cô sinh viên đó biệt tăm! Sau này, tình cờ tôi được biết cô đã trở thành một nữ nhà thơ có tên tuổi. Không hiểu, trong thân phận của một "Con Ve" theo hình tượng mà nhà văn cổ điển Pháp miêu tả, cô có lần nào ngẫm nghĩ về cách đặt vấn đề ngược kia của tôi?
Còn giờ đây, tôi đã nhìn thấy, nghe thấy "Con ve sầu Trần Nhương múa, hát". Mới đầu, nhìn tấm lưng già nua gò xuống miệt mài với từng nét vẽ, tôi se lòng thương ông.... Nhưng ngay sau đó, tôi thấy mình vô lý! Ông làm công việc mà không ai có thể làm thay ông. Và theo ông, nó cũng chỉ là công việc "vớ vẩn". Sự "vớ vẩn" đó, được nhà thơ-họa sĩ đặt trong cả một hệ thống như thế này:
Nào những danh gia vọng tộc
Tất cả đều vớ vẩn mà thôi
Chức tước xênh xang mũ áo
Tất cả đều vớ vẩn mà thôi
Quyền trượng oai phong ngất ngưởng
Tất cả đều vớ vẩn mà thôi
Cổ phần, vi la, tiền như cây cỏ
Tất cả đều vớ vẩn mà thôi
Vĩ đại vinh quang thống soái
Tất cả đều vớ vẩn mà thôi
Tư tưởng bảo hoàng, ngàn trang triết luận
Tất cả đều vớ vẩn mà thôi
Ta đắm đuối với câu thơ, bức họa
Cũng vớ vẩn thôi mà nhưng ta được là ta
Cỏ cứ mướt chân đê ngày tháng mới
Hoa cứ tàn bạc cánh lối người qua
(Vớ vẩn thôi mà)
Vâng, với cái mạch suy tưởng đó, có thể cứ tiếp tục dài dài. "Vớ vẩn thôi mà", những quả bóng bay đề thơ hay thả lên trời- kể cả những câu thơ làm mất uy tín của thơ lẫn người chọn nó. "Vớ vẩn thôi mà", những trò vè có thể tôn vinh thơ hay hạ thấp thơ. "Vớ vẩn thôi mà", những giải thưởng & danh hiệu chân chính hay lùm xùm... Nhưng, giá như hai câu kết bị cắt phăng đi, chỉ dừng lại bài thơ ở cái điều mà mạch thơ dẫn tới: "Ta đắm đuối với câu thơ, bức họa/ Cũng vớ vẩn thôi mà nhưng ta được là ta", thì theo tôi, bài thơ sẽ hoàn bích. Cái cảm nhận tất cả chỉ là "vớ vẩn" trong ông, lạ thay không đưa người đọc tới cái ấn tượng rằng ông là kẻ hư vô chủ nghĩa, và câu kết "Cũng vớ vẩn thôi mà nhưng ta được là ta" chính là một sự khẳng định cho thái độ sống lạc quan, nhờ vậy mới có thể nhìn cuộc đời một cách công bằng, sòng phẳng đến thế! Phải chăng, ông được ảnh hưởng một cách nhuần nhị tư tưởng sùng thượng tự nhiên cùng thái độ "vô vi" (cứ thuận theo tự nhiên mà làm) của Lão Tử- một nhân vật kỳ lạ đã giúp cho cả một dân tộc tồn tại được trong mấy ngàn năm vật lộn với đời sống mà không có nhiều người bị bệnh điên, bệnh thần kinh suy nhược, bệnh đứt gân máu như người phương Tây- theo cách nói của Lâm Ngữ Đường (Trích từ "Lão Tử- Đạo đức kinh", Nguyễn Hiến Lê chú dịch và giới thiệu-Nxb văn hóa, 1994). Mà nếu không phải thế, nếu đó chỉ là sự suy đoán nặng sách vở của một con mọt sách, cũng mong ông bạn vong niên Trần Nhương đại xá cho, chỉ bởi một lẽ: thằng đàn em mỗi lần mở vi tính là đầu tiên phải bấm chuột vào trang trannhuong.com- một trong những trang mạng văn chương-nghệ thuật tư nhân đầy công tâm, nhiều công sức không kém các trang: newvietart, nguyennguyenbay, nguyentrongtao, trieuxuan, dotchuoinon, lethieunhon, nguoibanduong, vanchuongviet, vandanviet, buudoan, v.v. Và mong ông cùng bạn đọc cũng coi đây chỉ là mấy dòng vớ vẩn thôi mà!
____________________
1. Bài thơ "Ve và Kiến" do học giả Nguyễn Văn Vĩnh dịch như sau:
Ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối
Một miếng cũng chẳng còn
Ruồi bọ không một con
Vác miệng chịu khúm núm
Sang chị Kiến hàng xóm
Xin cùng chị cho vay
Dăm ba hạt qua ngày
Từ nay sang tháng hạ
Em lại xin đem trả
Trước thu, thề đất trời!
Xin đủ cả vốn lời
Tính Kiến ghét vay cậy
Thói ấy chẳng hề chi
Nắng ráo chú làm gì?
Kiến hỏi Ve như vậy
Ve rằng: Luôn đêm ngày
Tôi hát, thiệt gì bác!
Kiến rằng: Xưa chú hát
Nay thử múa coi đây!
(La Fontaine - Nguyễn Văn Vĩnh dịch)
Giữa hè 2013
(Đạo diễn Điện ảnh)
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2 ngày 05.8.2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 20/06/2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét